Lời Nói Ðầu:
Tác
giả bài viết này không phải là một người đã từng phục vụ
trong Không Lực QLVNCH. Bài viết này được biên soạn xuất phát
từ lòng ngưỡng mộ của tác giả đối với Quân Chủng này, và nó
được viết ra nhằm giúp những độc giả ở bên ngoài Quân Chủng
có thể hiểu rõ phần nào cách thức tổ chức của các Sư Ðoàn
Không Quân của Không Lực VNCH. Trong quá trình biên soạn, tác
giả đã tham khảo rất nhiều tác phẩm Quân Sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa cũng như các bài viết của các tác giả Không Quân đã đăng trong các Trang Web như Hội Quán Phi Dũng, Cánh Thép, vv. Tác giả xin được đặc biệt cảm tạ những hướng dẫn về tài liệu và góp ý vô cùng quý báu của tác giả Nguyễn Hữu Thiện, một
cựu sĩ quan Không Lực VNCH, thành viên Ðặc trách biên soạn trong
Ban Thực Hiện của bộ quân sử nói trên. Những sai sót chắc
chắn không thể tránh được trong bài viết nầy hoàn toàn thuộc
trách nhiệm của người viết. Người viết rất mong được các độc
giả đã từng phục vụ trong Không Lực VNCH, đặc biệt là các vị
sĩ quan niên trưởng của Quân Chủng, giúp thêm ý kiến để bổ
sung những điểm còn thiếu sót hay điều chỉnh những điểm sai
trong bài viết. Người viết xin thành thật cảm tạ.
Không Quân (viết tắt KQ) của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là một
quân chủng đã phát triển vượt bực trong suốt thời gian Chiến
Tranh Việt Nam. Từ một bộ phận nhỏ của Quân Ðội Quốc Gia Việt
Nam còn lệ thuộc rất nhiều vào lực lượng không quân của Quân
Ðội Viễn Chinh Pháp (1951-1955), KQ Việt Nam đã liên tục phát
triển nhanh chóng và đến giữa thập niên 1970 đã được xem như là
không lực đứng hàng thứ tư trên thế giới về số lượng phi cơ
(sau Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Cộng). Lịch sử hình thành và
phát triển của KQ VNCH có thể được chia làm 5 thời kỳ như sau:1
- Thời kỳ thành lập: 1951-1955
- Thời kỳ phát triển: 1956-1964
- Thời kỳ hiện đại hóa: 1965-1968
- Thời kỳ bành trướng: 1969-1972
- Thời kỳ sau Hiệp Ðịnhh Paris: 1973-1975
Vào
cuối năm 1974, KQ VNCH đã có một quân số là 61.147 người, gồm
65 phi đoàn với tổng số 2071 phi cơ đủ loại, và được tổ chức
thành 6 sư đoàn KQ bố trí trên khắp lãnh thổ của VNCH như sau:
- Sư
Ðoàn 1: đóng tại Ðà Nẵng, với Sư Ðoàn Trưởng là Chuẩn Tướng
Nguyễn Ðức Khánh, có nhiệm vụ chính là yểm trợ các cuộc
hành quân của Quân Ðoàn I, và gồm 3 Không Ðoàn Chiến Thuật 41,
51, và 61.
- Sư
Ðoàn 2: đóng tại Nha Trang, với Sư Ðoàn Trưởng là Chuẩn Tướng
Nguyễn Văn Lượng, có nhiệm vụ chính là yểm trợ các cuộc hành
quân của Quân Ðoàn II, và gồm 2 Không Ðoàn Chiến Thuật 62 và
92.
- Sư
Ðoàn 3: đóng tại Biên Hòa, với Sư Ðoàn Trưởng là Chuẩn Tướng
Huỳnh Bá Tính, có nhiệm vụ chính là yểm trợ các cuộc hành
quân của Quân Ðoàn III, và gồm 3 Không Ðoàn Chiến Thuật 23, 43,
và 63.
- Sư
Ðoàn 4: đóng tại Cần Thơ, với Sư Ðoàn Trưởng là Chuẩn Tướng
Nguyễn Hữu Tần, có nhiệm vụ chính là yểm trợ các cuộc hành
quân của Quân Ðoàn IV, và gồm 3 Không Ðoàn Chiến Thuật 64, 74,
và 84.
- Sư
Ðoàn 5: là một sư đoàn vận tải, trực thuộc Bộ Tư Lệnh KQ,
đóng tại Sài Gòn (căn cứ Tân Sơn Nhứt), với Sư Ðoàn Trưởng là
Chuẩn Tướng Phan Phụng Tiên, và gồm 2 Không Ðoàn Chiến Thuật 33
và 53.
- Sư
Ðoàn 6: đóng tại Pleiku, sau ngày 16-4-1975 dời về Phan Rang,
với Sư Ðoàn Trưởng là Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, có nhiệm vụ
chính là yểm trợ các cuộc hành quân của Quân Ðoàn II, và gồm
2 Không Ðoàn Chiến Thuật 72 và 82.
Sư Ðoàn 1 Không Quân
Huy hiệu Sư Ðoàn 1 Không Quân
Sư Ðoàn 1 KQ được chính thức thành lập vào tháng 9-1970 tại
Căn Cứ KQ Ðà Nẵng với Sư Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Nguyễn Ðức
Khánh, về sau, ngày 1-4-1974, vinh thăng Chuẩn Tướng.
Chuẩn Tướng Nguyễn Ðức Khánh
Không như phần lớn các tướng lãnh KQ VNCH là những sĩ quan được
động viên và tốt nghiệp các trường sĩ quan trừ bị Nam Ðịnh
hay Thủ Ðức sau đó mới chuyển sang KQ, Chuẩn Tướng Khánh tình
nguyện vào KQ năm 1954, và trúng tuyển kỳ thi du học ngành phi
hành tại Trường Võ Bị KQ Pháp Salon-de-Provence, và tốt nghiệp
với cấp bậc Thiếu Úy Hoa Tiêu Khu Trục 2,3
Tướng Khánh, khi còn mang cấp bậc Trung Tá, trong khoảng
1967-1970, cũng đã từng là Không Ðoàn Trưởng Không Ðoàn 41 Chiến
Thuật tại Ðà Nẵng, là không đoàn chiến thuật nồng cốt của Sư
Ðoàn 1 KQ.
Sư Ðoàn 1 KQ gồm có tất cả 3 Không Ðoàn Chiến Thuật là các Không Ðoàn 41, 51, và 61.
Không Ðoàn 41 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 41 Chiến Thuật
Không Ðoàn 41 Chiến Thuật được thành lập vào đầu năm 1964 với
Không Ðoàn Trưởng đầu tiên là Trung Tá Phạm Long Sửu.4,5,6
Sau năm 1972, Không Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Thái Bá Ðệ và Không
Ðoàn Phó là Trung Tá Nguyễn Văn Vượng. Không Ðoàn 41 gồm có
tất cả 3 phi đoàn với phiên hiệu như sau: Phi Ðoàn 110, Phi Ðoàn
120, và Phi Ðoàn 427.
Trước khi tìm hiểu thêm về các phi đoàn này chúng ta cần biết
là từ khoảng đầu thập niên 1960, KQ VNCH bắt đầu sử dụng một
hệ thống phiên hiệu, gồm 3 số, để đặt tên cho các phi đoàn, mà
con số đầu tiên được quy định như sau: số 1 là các phi đoàn
quan sát, số 2 là các phi đoàn trực thăng, số 3 là các phi
đoàn đặc nhiệm, số 4 là các phi đoàn vận tải, số 5 là các
phi đoàn khu trục (kể cả phản lực), số 6 có thể xem như không
được sử dụng (lúc đầu định dành cho thủy phi cơ nhưng không
thành, sau đó dùng cho các phi đoàn oanh tạc cơ nhưng cũng không
tồn tại được lâu, vì chỉ có một phi đội oanh tạc duy nhứt, sử
dụng oanh tạc cơ B-57 Canberra, được thành lập là Biệt Ðội 615
do Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Biện làm Chỉ Huy Trưởng, nhưng sớm bị
giải thể vào tháng 4-1966 vì phi cơ B-57 không đáp ứng được nhu
cầu chiến trường và bị thiệt hại quá nhiều), số 7 là các phi
đoàn không thám điện tử, tiếng Anh gọi là Electronic
Intelligence = ELINT hay Communications Intelligence = COMINT, một bộ
phận của công tác tình báo tín hiệu, Signal Intelligence =
SIGINT), số 8 là các phi đoàn yểm trợ hỏa lực (hay vận tải võ
trang, gunship, hỏa long hay cường kích), và số 9 là các phi
đoàn huấn luyện. Cách thức đặt phiên hiệu như sau:
- Con số hàng trăm (tức số đầu tiên): là con số dành cho ngành
- Con số hàng chục (tức số thứ nhì): khởi sự là số 1
-
Con số hàng đơn vị (tức số thứ ba): lấy số ngành trừ cho số
1, thì dụ, số của ngành quan sát là số 1, 1-1 = 0; vậy phiên
hiệu của phi đoàn quan sát đầu tiên sẽ là 110
Sau
khi đã có phiên hiệu của phi đoàn đầu tiên rồi thì cứ cộng
thêm 2 sẽ có các phiên hiệu của các phi đoàn kế tiêp. Do đó,
phiên hiệu của tất cả các phi đoàn của KQ VNCH được quy định
như sau: 7
- Ngành quan sát: 110, 112, 114 …
- Ngành trực thăng: 211, 213, 215 …
- Ngành đặc nhiệm: 312, 314
- Ngành vận tải: 413, 415, 417 …
- Ngành khu trục: 514, 516, 518 …
- Ngành oanh tạc: 615
- Ngành không thám điện từ: 716, 718
- Ngành yểm trợ hỏa lực: 817, 919, 821
- Nganh huấn luyện: 918, 920 …
Theo hệ thống phiên hiệu của KQ VNCH vừa trình bày trên đây, hai Phi Ðoàn 110 và 120 là 2 phi đoàn quan sát.
Phi
Ðoàn 110, trong thời Pháp thuộc, mang tên là 1er GAOAC (Group
Aérien d’Observation et d’Accompagnement au Combat, gọi tắt là GAO)
được thành lập ngày 1-10-1952 tại Nha Trang, chuyển về TSN năm
1953, di chuyển ra Huế năm 1954, về lại TSN năm 1955, di chuyển ra Ðà
Nẵng tháng 11 năm 1956, và chính thức trở thành Phi Ðoàn 110 Quan Sát
vào tháng 01 năm 1963. Phi Ðoàn còn được biết dưới nhiều tên
khác nhau như Phi Ðoàn 1 Quan Sát, Ðệ Nhất Phi Ðoàn Quan Sát, và
Phi Ðoàn Thiên Phong. Các vị Phi Ðoàn Trưởng lần lượt là:
Nguyễn Ngọc Oánh, Trần Phước, Nguyễn Trọng Ðệ, Ngô Tấn Diêu, Phan Văn
Mạnh, Võ Trung Nhơn, Lê Sĩ Thắng, Nguyễn Tài Hiệp (Xử Lý Thường Vụ).8
Phi Ðoàn 120, được thành lập vào tháng 5-1971 tại Ðà Nẵng; Phi Ðoàn Trưởng: Trung Tá Lê Công Thịnh.
Cả 2 phi đoàn đều được trang bị những loai phi cơ quan sát hiện
đại nhứt của thập niên 1970 do Hoa Kỳ cung cấp:
Phi cơ quan sát O-1 Bird Dog
Phi
cơ O-1 Bird Dog, do hãng Cessna sản xuất, là phi cơ liên lạc được
thiết kế lại từ phi cơ L-19 đã được KQ VNCH sử dụng từ giữa
thập niên 1950. O-1 Bird Dog có những đặc tính như sau: 9
- Chiều dài: 7,88 m
- Sải cánh: 10,97 m
- Chiều cao: 2,23 m
- Trọng lượng: 734 kg
- Ðộng cơ: 1 động cơ cánh quạt Continental O-470-11, 6 xi-lanh, 213 mã lực
- Vận tốc: bình phi 167 km/giờ; tối đa 185 km/giờ
- Tầm hoạt động: 853 km
- Khả năng cất cánh / đáp: chỉ cần một khoảng cách 170-180 m
- Phi cơ U-17 A/B Skywagon:
Phi cơ quan sát U-17 A/B Skywagon
Phi cơ quan sát U-17 A/B Skywagon, cũng do hãng Cessna sản xuất, có những đặc tính như sau: 10
- Chiều dài: 7,8 m
- Sải cánh: 10,92 m
- Chiều cao: 2,3 m
- Trọng lượng: 783 kg
-
Ðộng cơ: 1 động cơ cánh quạt Continental, kiểu A động cơ IO-470,
260 mả lực, kiểu B động cơ IO-520, 300 mã lực
- Vận tốc: bình phi 210 km/giờ; tối đa 330 km/giờ
- Tầm hoạt động: 4 giờ 30 phút
- Khả năng vận chuyển: có thể chở được 6 người kể cả phi công
Phi
Ðoàn Vận Tải 427, mang danh hiệu Thần Long, được thành lập vào
tháng 2-1972 tại Căn Cứ KQ Phù Cát, Bình Ðịnh, thuộc Vùng II,
với ban chỉ huy như sau: 11
- Phi Ðoàn Trưởng: Trung Tá Phạm Văn Cần
- Phi Ðoàn Phó: Thiếu Tá Nguyễn Bá Ðạm
- Trưởng Phòng Hành Quân: Thiếu Tá Trần Văn Minh
- Trưởng Phòng Huấn Luyện: Thiếu Tá Hà Văn Hòa
- Trưởng Phòng An Phi: Thiếu Tá Nguyễn Văn Kim
Phi Ðoàn 427 là phi đoàn đầu tiên của KQ VNCH được trang bị phi
cơ C-7 Caribou do công ty De Havilland (của Canada) sản xuất:
Phi cơ vận tải C-7A Caribou
Phi cơ C-7 Carbou là một phi cơ vận tải thuộc loại không cần phi
đạo dài (chỉ cần khoảng 300 m thôi) trong lúc đáp và cất cánh
(STOL: short takeoff and landing), mang những đặc tính như sau: 12
- Chiều dài: 22,12 m
- Sải cánh: 29,13 m
- Chiều cao: 9,65 m
- Trọng lượng: 8.283 kg
- Ðộng cơ: 2 động cơ cánh quạt Pratt & Whitney R-2000-7M2, 14 xi-lanh, 1,450 mã lực mỗi cái
- Vận tốc: 348 km/giờ
- Tầm hoạt động: 2,103 km
- Cao độ tối đa: 7.559 m
- Phi hành đoàn: 3
-
Khả năng vận chuyển: có thể chở được khoàng 1 trung đội binh
sĩ, hoặc 2 xe Jeep hoặc xe quân sự cỡ nhỏ
Nhờ
khả năng đặc biệt của phi cơ C-7 Caribou, như có thể đáp xuống
bất cứ đường băng nào, bằng cỏ hay đất nện, không cần bằng
bê-tông, và chỉ cần dài khoảng 300 m là đủ, Phi Ðoàn 427 đã
hằng ngày thực hiện được những phi vụ vô cùng nguy hiểm để
tiếp tế và tải thương cho các đơn vị Biệt Ðộng Quân Biên Phòng
(cũng như các đơn vị bạn khác) đồn trú tại các địa điểm rừng
núi hiểm trở và hẻo lánh trong phạm vi trách nhiệm của Quân
Ðoàn I.
Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 41 Chiến Thuật:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trưởng
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 110
|
Ðầu tiên: Ðại Úy Nguyễn Ngọc Oánh
Cuối Cùng (XLTV): Trung Tá Nguyễn Tài Hiệp
|
Thiên Phong
|
|
Phi Ðoàn 120
|
Trung Tá Lê Công Thịnh
|
Bạch Yến
|
|
Phi Ðoàn 427
|
Trung Tá Phạm Văn Cần
|
Thần Long
|
|
Không Ðoàn 51 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 51 Chiến Thuật
Ðóng tại Ðà Nẵng, Không Ðoàn 51, với Không Ðoàn Trưởng cuối
cùng là Ðại Tá Nguyễn Văn Vượng, gồm có tất cả 6 phi đoàn
trực thăng là các phi đoàn 213, 233, 239, 247, 253, và 257.
So
với các ngành liên lạc, vận tải, và khu trục, ngành trực
thăng tương đối sinh sau đẻ muộn, nhưng lại là ngành phát triển
tương đối nhanh và mạnh mẽ nhứt của KQ VNCH. 13
Thông
thường các phi đoàn trực thăng UH-1 đều có 4 phi đội, 3 phi đội
trang bị nhẹ (slick) và 1 phi đội võ trang (gun), mỗi phi đội
có 8 chiếc, tổng cộng 32 chiếc trực thăng UH-1. Một vài phi
đoàn có thể có đến 38 chiếc trực thăng UH-1. Các phi đoàn
CH-47 Chinook thì cấp số là 16 chiếc. KQ VNCH, tính đến trước
ngày 30-4-1975, đã tiếp nhận từ quân đội Mỹ tổng cộng khoảng
800 trực thăng UH-1 và 100 trực thăng CH-47 Chinook. Các phi cơ
trực thăng UH-1 của KQ VNCH đã được sử dụng trong rất nhiều phi
vụ khác nhau, từ đổ quân (trong các cuộc hành quân trực thăng
vận), tải thương, cho đến tiếp tế (các đơn vị, tiền đồn bị
địch bao vây), và cứu nạn (truy tầm và tiếp cứu các phi công
bị địch bắn rơi), vv.
Phi
Ðoàn 213 là phi đoàn kỳ cựu nhứt của Không Ðoàn 51. Phi đoàn
được thành lập vào ngày 1-10-1961 với 20 chiếc trực thăng H-34
và với thành phần Ban Chỉ Huy như sau:
- Chỉ Huy Trưởng: Ðại Úy Nguyễn Xuân Trường
- Chỉ Huy Phó: Ðại Úy Nguyễn Hữu Hậu
- Sĩ quan Kỹ Thuật: Trung Úy Ngô Khắc Thuật
- Trưởng Phòng Hành Quân: Thiếu Úy Nguyễn Văn Trang
Trực thăng H-34 mang những đặc tính như sau: 14
Phi cơ trực thăng H-34
- Chiều dài: 17,28 m
- Chiều cao: 4,85 m
- Trọng lượng: 3.583 kg
- Ðộng cơ: 1 động cơ cánh quạt (rotor) Wright R-1820-84 radial engine, có đường kính 17,07 m, 1.525 mã lực
- Vận tốc: tối đa 278 km/giờ
- Tầm hoạt động: 293 km
- Cao độ tối đa: 1.495 m
- Phi hành đoàn: 2 phi công chánh và phụ
- Khả năng vận chuyển: từ 12 (loại A) đến 18 binh sĩ (loại C); hoặc 8 cáng tải thương
So
với trực thăng H-19 do KQ Pháp để lại thì H-34 đã mạnh hơn, bay
nhanh hơn và có tầm hoạt động rộng hơn. Từ sau 1965, khi quân
Mỹ đã vào Việt Nam, và chiến thuật trực thăng vận được áp
dụng gần như cho tất cả các cuộc hành quân lớn nhỏ, trực thăng
H-34 đã dần dần được thay thế bởi trực thăng UH-1 có tầm hoạt
động rộng hơn và có trang bị hỏa lực.
Các
phi đoàn trực thăng còn lại của Không Ðoàn 51 đều được thành
lập sau 1970. Tất cả các Phi Ðoàn này (trừ Phi Ðoàn 247) cùng
với Phi Ðoàn 213 đều sử dụng trực thăng UH-1. Phi Ðoàn 247 là
phi đoàn duy nhứt của Không Ðoàn 51 Chiến Thuật sử dụng phi cơ
CH-47 Chinook.
Phi cơ trực thăng CH-47 Chinook là loại trực thăng lớn có khả năng vận tải và tiếp tế rất quan trọng.
Phi cơ trực thăng CH-47
Trực thăng Chinook mang những đặc tính như sau: 15
- Chiều dài: 30,1 m
- Chiều cao: 5,7 m
- Trọng lượng: 10.185 kg
- Ðộng cơ: 2 động cơ cánh quạt (rotor) Lycoming T55-GA-714A turboshaft, 4.733 mã lực mỗi cái
- Vận tốc: bình phi 240 km/giờ, tối đa 315 km/giờ
- Tầm hoạt động: 741 km
- Cao độ tối đa: 5.640 m
- Phi hành đoàn: 3 người gồm phi công chánh, phi công phụ, và cơ phi
- Khả năng vận chuyển: từ 33 đến 55 binh sĩ; 12.700 kg vật dụng
- Trang bị hỏa lực: có thể trang bị 3 đại liên 7,62 mm loại M24/FN MAG ở phía sau và 2 bên sườn
Trực
thăng UH-1, với biệt danh (nickname) là “Huey,” là loại trực
thăng đa dụng, và về sau đã trở thành 1 biểu tượng của Chiến
Tranh Việt Nam. Có thể nói mà không sợ sai lầm là khi nói đến
Chiến Tranh Việt Nam thì cái hình ảnh đầu tiên mà mọi người
Mỹ cũng như Việt nghĩ đến là chiếc trực thăng Huey. Trên thực
tế, cái tính cách làm cho quân đội Mỹ khác hẳn quân đội Pháp
chính là tính cơ động của quân Mỹ, và việc đó chính là do
việc lục quân Mỹ sử dụng triệt để các phi cơ trực thăng trong
các cuộc hành quân của họ. QLVNCH, từ sau 1965, cũng mang tính
di động cao này, với những cuộc hành quân trực thăng vận lớn
nhỏ trên khắp lãnh thổ. Tuy nhiên, trực thăng Huey không phải
chỉ được sử dụng để chuyển quân thôi, mà còn được sử dụng
trong rất nhiều công tác khác, như thám thính, yểm trợ hỏa
lực, khai quang, tải thương, tiếp tế, tiếp cứu, vv. Chính vì
thế, trực thăng UH-1 đã có rất nhiều kiểu (model) khác nhau, 1A,
1B, 1D, 1H, vv mỗi kiểu thích hợp cho một loại công tác khác
nhau.16,17 Phần lớn phi cơ trực thăng của KQ VNCH là loại UH-1H.
Phi cơ trực thăng UH-1 Huey
Phi cơ trực thăng UH-1 mang những đặc tính như sau: 18
- Chiều dài: 17,4 m
- Chiều cao: 4,39 m
- Trọng lượng: 2.365 kg
-
Ðộng cơ: 1 động cơ cánh quạt (rotor, có đường kính 14,63 m)
loại Lycoming T53-L-11 turboshaft, 1.100 mã lực mỗi cái
- Vận tốc: bình phi 201 km/giờ, tối đa 217 km/giờ
- Tầm hoạt động: 507 km
- Cao độ tối đa: 5.910 m
- Phi hành đoàn: 1-4 người gồm phi công chánh, phi công phụ, cơ phi, xạ thủ đại liên
- Khả năng vận chuyển: 14 binh sĩ, hoặc 6 cáng tải thương, hoặc 1.760 kg vật dụng
-
Trang bị hỏa lực: có thể trang bị 2 đại liên 7,62 mm loại
GAU-17/A hai bên sườn, và 2 ổ hỏa tiễn loại 7 hay 19 hỏa tiễn
loại 70 mm
Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn trực thăng của Không Ðoàn 51 Chiến Thuật:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trường
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 213
|
Ðầu tiên: Ðại Úy Nguyễn Xuân Trường
Cuối cùng: Trung Tá Cao Quang Khôi
|
Song Chùy
|
|
Phi Ðoàn 233
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Bùi Quang Chính
Cuối cùng: Trung Tá Nguyễn Văn Thanh
|
Thiên Ưng
|
|
Phi Ðoàn 239
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Trần Duy Kỳ
Cuối cùng: Trung Tá Nguyễn Anh Toàn
|
Hoàng Ưng
|
|
Phi Ðoàn 247
|
Trung Tá Nguyễn Văn Mai
|
Lôi Phong
|
|
Phi Ðoàn 253
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Phạm Ðăng Luân
Cuối cùng: Thiếu Tá Huỳnh Văn Phố
|
Sói Thần
|
|
Phi Ðoàn 257
|
Trung Tá Lê Ngọc Bình
|
Cứu Tinh
|
|
Không Ðoàn 61 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 61 Chiến Thuật
Ðóng tại Ðà Nẵng, Không Ðoàn 61, thuộc Sư Ðoàn 1 KQ, gồm có
tất cả 4 phi đoàn khu trục 516, 528, 538, và 550, sử dụng 2 loại
phi cơ khu trục phản lực A-37B Dragonfly và F5-A/B Freedom
Fighter. Không Ðoàn Trưởng đầu tiên là Trung Tá Thái Bá Ðệ.
Phi Ðoàn 516 là phi đoàn kỳ cựu nhứt của Không Ðoàn 61:
- Chỉ Huy Trưởng đầu tiên là Ðại Úy Phạm Long Sửu
- Gọi là Phi Ðoàn II Khu Trục, mang danh hiệu là Phi Hổ
- Ðược thành lập từ tháng 12-1961 tại Nha Trang, và được trang bị phi cơ T-28
- Năm 1964 di chuyển ra Ðà Nẵng, và được trang bị phi cơ A1-H Skyraider
-
Năm 1968, tất cả đoàn viên của phi đoàn được gởi sang Mỹ để
xuyên huấn về phi cơ khu trục phản lực A-37B Dragonfly
Các phi đoàn còn lại của Không Ðoàn 61 đều được thành lập sau năm 1970:
-
Phi Ðoàn 528, danh hiệu Hổ Cáp, thành lập năm 1970, Chỉ Huy
Trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Cao Văn Khuyến, và được trang bị
phản lực cơ A-37B Dragonfly
-
Phi Ðoàn 538, danh hiệu Hồng Tiễn, thành lập cuối năm 1972, Chỉ
Huy Trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Phạm Ðình Anh, và được trang
bị phản lực cơ F-5A và F-5B. Qua năm 1973, Phi Ðoàn 538 được
trang bị bằng phản lực cơ F-5E Tiger II, tối tân hơn và chuyên
biệt về không chiến. (Ghi chú quan trọng: Về
mặt quản lý, Phi Ðoàn này trực thuộc Không Ðoàn 63 Chiến
Thuật của Sư Ðoàn 3 KQ tại Biên Hòa; Phi Ðoàn này được đưa ra
đóng tại Ðà Nẵng là để đề phòng phản lực cơ MIG của Bắc Viêt
xâm nhập)
-
Phi Ðoàn 550, danh hiệu Nhện Ðen, thành lập cuối năm 1972, Chỉ
Huy Trưởng đầu Tiên là Thiếu Tá Lê Trai, và được trang bị phản
lực cơ A-37B Dragonfly
Phản lực cơ A-37B Dragonfly mang những đặc tính như sau: 19
Phi cơ khu trục phản lực A-37B Dragonfly
- Chiều dài: 8,62 m
- Sải cánh: 10,93 m
- Chiều cao: 2,70 m
- Trọng lượng: 2.817 kg
- Ðộng cơ: 2 động cơ phản lực loại General Electric J85-GE-17A turbojet, với sức đẩy 2.850 pounds mỗi cái
- Vận tốc: bình phi 787 km/giờ, tối đa 816 km/giờ
- Tầm hoạt động: 1.480 km
- Cao độ tối đa: 12.730 m
- Phi hành đoàn: 1 phi công
- Trang bị hỏa lực:
. 1 đại liên 7,62 mm loại GAU-2B/A ở trước mũi
. 8 ổ để gắn đại liên ở dưới cánh
. 4 ổ để gắn hỏa tiễn Sidewinder ở dưới cánh
. 8 quả bom loại 500 cân Anh
Trang bị hỏa lực của Phản lực cơ A-37B Dragonfly
Phản lực cơ F-5A/B Freedom Fighter mang các đặc tính sau đây: 20
Phi cơ khu trục phản lực F-5A/B Freedom Fighter
- Chiều dài: 14,45 m
- Sải cánh: 8,13 m
- Chiều cao: 4,08 m
- Trọng lượng: 4.349 kg
- Ðộng cơ: 2 động cơ phản lực loại General Electric J85-GE-13 turbojet, với sức đẩy 4.080 pounds mỗi cái
- Vận tốc: bình phi 0.84 Mach (1.037 km/giờ), tối đa 1,4 Mach (1.728 km/giờ)
- Tầm hoạt động: 2.253 km
- Cao độ tối đa: 15.240 m
- Phi hành đoàn: 1 phi công
- Trang bị hỏa lực:
. 2 đại liên 20 mm loại GAU-2B/A ở trước mũi
. 2 ổ hỏa tiễn Sidewinder
. có thể mang nhiều loại bom khác nhau
Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 61 Chiến Thuật:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trưởng
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 516
|
Ðầu tiên: Ðại Úy Phạm Long Sửu
|
Phi Hổ
|
|
Phi Ðoàn 528
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Cao Văn Khuyên
|
Hổ Cáp
|
|
Phi Ðoàn 538
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Phạm Ðình Anh
|
Hồng Tiễn
|
|
Phi Ðoàn 550
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Lê Trai
|
Nhện Ðen
|
|
Sư Ðoàn 2 Không Quân
Huy hiệu Sư Ðoàn 2 Không Quân
Sư Ðoàn 2 KQ được chính thức thành lập vào tháng 7-1970 tại
Nha Trang, với Sư Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Nguyễn Văn Lượng, về
sau, vào ngày 1-11-1972, vinh thăng Chuẩn Tướng.
Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Lượng
Cũng như phần lớn các tướng lãnh KQ VNCH, Chuẩn Tướng
Nguyễn Văn Lượng được động viên vào Khóa 1 Sĩ Quan Trừ Bị Nam
Ðịnh, tốt nghiệp (tháng 6-1952) với cấp bậc Thiếu Úy. Tháng
12-1952, ông trúng tuyển vào KQ, theo học và tốt nghiệp Khóa 2
Hoa Tiêu Quan Sát tại Trung Tâm Huấn Luyện KQ Nha Trang vào tháng
8-1953.21
Sư Ðoàn 2 KQ gồm có 2 Không Ðoàn Chiến Thuật là Không Ðoàn 62 và Không Ðoàn 92.
Không Ðoàn 62 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 62 Chiến Thuật
Không Ðoàn 62 được thành lập vào tháng 3-1964 tại
Pleiku, và đến tháng 1-1965 thì dời về Nha Trang. Không Ðoàn
Trưởng đầu tiên là Trung Tá Trần Văn Minh, về sau là Trung Tướng
Tư Lệnh Không Quân.22
Không Ðoàn Phó là Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tần, về sau là Chuẩn
Tướng Tư Lệnh Sư Ðoàn 4 KQ. Không Ðoàn 62 gồm có tất cả 4 phi
đoàn và 1 biệt đội: Phi Ðoàn 114, Phi Ðoàn 215, Phi Ðoàn 219,
Biệt Ðội 259C, và Phi Ðoàn 817.
Phi Ðoàn 114, theo phiên hiệu do KQ VNCH sử dụng, là một phi
đoàn quan sát, mà tiền thân là Phi Ðoàn 3 Quan Sát được thành
lập vào tháng 12-1961 tại Ðà Nẵng, được đổi tên Phi Ðoàn 114
vào tháng 1-1963, di chuyển lên Pleiku cuối năm 1963, và sau cùng
về Nha Trang từ tháng 1-1965. Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Ðại
Úy Phan Quang Phúc. Phi Ðoàn 114 cũng sử dụng 2 loại phi cơ quan
sát là O-1 và U-17 như các Phi Ðoàn 110 và 120, thuộc Sư Ðoàn 1
KQ đã trình bày bên trên.
Phi Ðoàn 215, phi đoàn thứ nhì mang phiên hiệu này, là một phi
đoàn trực thăng. Phi Ðoàn 215 thứ nhứt được thành lập vào đầu
năm 1963 tại Tân Sơn Nhứt để phụ trách huấn luyện nhưng không
có kết quả tốt nên đã bị giải tán vào tháng 5-1964. Ðến
tháng 9-1964, một phi đoàn trực thăng mới được thành lập tại
Ðà Nẵng và được mang phiên hiệu 215 này, với danh hiệu Thần
Tượng và ban chỉ huy gồm:
- Ðại Úy Trần Minh Thiện: Chỉ Huy Trưởng
- Trung Úy Ðặng Trần Dưỡng: Chỉ Huy Phó
- Thiếu Úy Nguyễn Văn Trang: Trưởng Phòng Hành Quân
- Thiếu Úy Phạm Bính: Phụ Tá
Phi
Ðoàn 215 cùng với Phi Ðoàn 213, đều sử dụng trực thăng UH-1,
phụ trách huấn luyện và hành quân cho đến đầu năm1965 thì
chuyển về Nha Trang.
Phi
Ðoàn 219, mang danh hiệu Long Mã, được thành lập tại Ðà Nẵng
vào đầu năm 1966 do sự sáp nhập của 2 biệt đội trực thăng H-34
chuyên thả các toán Lôi Hổ của Lực Lượng Ðặc Biệt. Trong thời
gian đầu, Phi Ðoàn 219 trực thuộc Biệt Ðoàn 83 đóng tại Tân Sơn
Nhứt cho đến khi Biệt Ðoàn 83 bị giải tán vào năm 1969 thì
chuyển sang trực thuộc Không Ðoàn 62 Chiến Thuật. Khi mới thành
lập Phi Ðoàn 219 có ban chỉ huy đầu tiên như sau:
- Ðại Úy Hồ Bảo Ðịnh: Chỉ Huy Trưởng
- Ðại Úy Trần Văn Luân: Chỉ Huy Phó
- Ðại Úy Nguyễn Văn Nghĩa: Trưởng Phòng Hành Quân
- Ðại Úy Nguyễn Phi Hùng: Sĩ Quan Phụ Tá
- Trung Úy Nguyễn Hữu Lộc: Sĩ Quan Huấn Luyện
- Trung Úy Ðỗ Văn Hiếu: Sĩ Quan An Phi
Sau
khi thành lập, Phi Ðoàn 219, sử dụng trực thăng H-34, vẫn tiếp
tục thực hiện các phi vụ thả các toán Lôi Hổ. Cuối năm 1971,
cũng như các Phi Ðoàn 213 và 215, Phi Ðoàn 219 chuyển sang sử
dụng trực thăng UH-1.
Biệt
Ðội 259C là Biệt Ðội C của Phi Ðoàn 259, mang danh hiệu Nhân Ái,
là một phi đoàn sử dụng trực thăng UH-1 và chuyên về tải
thương. Phi Ðoàn 259 gồm có tất cả 8 biệt đội mang ký hiệu từ
chữ A đến chữ H, và trú đóng tại các Căn Cứ KQ như trong bảng
liệt kê sau đây:
- Phi Ðội 259A: Phù Cát (Bình Ðịnh)
- Phi Ðội 259B: Pleiku
- Phi Ðội 259C: Nha Trang
- Phi Ðội 259D: Phan Rang
- Phi Ðội 259E: Biên Hòa
- Phi Ðội 259F: Cần Thơ
- Phi Ðội 259G: Tân Sơn Nhứt
- Phi Ðội 259H: Bình Thủ
Phi Ðoàn 817, theo hệ thống phiên hiệu của KQ VNCH, là một phi
đoàn yểm trợ hỏa lực (hay vận tải võ trang, gunship, cường
kích hay hỏa long) được trang bị phi cơ AC-47D Spooky như trong
hình dưới đây:
Phi cơ AC-47D Spooky chính là một chiếc phi cơ DC-3 Dakota được
trang bị hỏa lực hùng hậu để thực hiện các phi vụ yểm trợ
hỏa lực cho các đơn vị bạn hay các tiền đồn hẻo lánh bị địch
bao vây. Loại phi cơ này mang những đặc tính như sau: 23
- Chiều dài: 19, m
- Sải cánh: 28,9 m
- Chiều cao: 5,2 m
- Trọng lượng: 8.2 kg
- Ðộng cơ: 2 động cơ cánh quạt Pratt & Whitney R-1830-90C, 1,200 mã lực mỗi cái
- Vận tốc: bình phi 280 km/giờ; tối đa 375 km/giờ
- Tầm hoạt động: 3,500 km
- Cao độ tối đa: 7.450 m
- Phi hành đoàn: 7 người, gồm, phi công chính, phi công phụ, navigator, cơ phi, loadmaster, và 2 xạ thủ đại liên
- Trang bị hỏa lực:
. 3 đại liện 7,62 ly loại GAU-2/M134 minigun, có thể bắn với vận tốc 2000 viên/phút
. hoặc 10 đại liên 7,62 ly loại Browning AN/M2
. 48 hỏa châu loại Mk 24
Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 62 Chiến Thuật:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trưởng
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 114
|
Ðầu tiên: Ðại Úy Phan Quang Phúc
Cuối cùng(XLTV): Trung Tá Võ Văn Oanh
|
Sao Mai
|
|
Phi Ðoàn 215
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Trần Minh Thiện
Cuối cùng: Trung Tá Khưu Văn Phát
|
Thần Tượng
|
|
Phi Ðoàn 219
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Hồ Bảo Ðịnh
Cuối cùng: Trung Tá Phạm Ðăng Luân
|
Long Mã
|
|
Biệt Ðội 259C
|
Thiếu Tá Nguyễn Minh Lương
|
Nhân Ái
|
|
Phi Ðoàn 817
|
Trung Tá Huỳnh Quang Tòng
|
Hỏa Long
|
|
Trong cuộc Hành Quân Lam Sơn 719 của QLVNCH tấn công sang Hạ Lào
để phá hủy các căn cứ hậu cần trên đường mòn Hồ Chí Minh của
địch quân trong 2 tháng 2 và 3-1971, các phi đoàn trực thăng của
KQ VNCH đã tham chiến, thực hiện rất nhiều những phi vụ đổ
quân, tiếp tế, và tải thương, và đã chịu nhiều thiệt hại.
Rất tiếc hiện nay vẫn chưa có một tài liệu nào tổng kết
những thiệt hại của ngành trực thăng trong cuộc hành quân hết
sức quan trọng này. Bài viết “Chuyến bay tử thần vào Ðồi 31 Hạ Lào”
của tác giả Bùi Tá Khánh, một phi công của Phi Ðoàn 219 Long
Mã, ghi lại những hy sinh bi thương và hùng tráng của 2 phi hành
đoàn thuộc Phi Ðoàn 219, mà chính tác giả là một nhân chứng.24
Một chi tiết cần lưu ý là trong bài viết này, tác giả cho
biết Phi Ðoàn 219, tại thời điểm này (tháng 2-1971), vẫn còn
sử dụng trực thăng H-34 và vẫn còn thuộc Không Ðoàn 51, Sư Ðoàn
1 KQ trú đóng tại Ðà Nẵng.
Không Ðoàn 92 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 92 Chiến THuật
Không Ðoàn 92 được thành lập vào giữa năm 1972 và đóng tại
Phan Rang, với Không Ðoàn Trưởng là Trung Tá (sau thăng cấp lên
Ðại Tá) Lê Văn Thảo, gồm có 3 phi đoàn khu trục phản lực cơ
A-37 là các Phi Ðoàn 524, 534, và 548, và một Biệt Ðội tải
thương là Biệt Ðội 259D với phi cơ trực thăng UH-1.
Phi Ðoàn 524, mang danh hiệu Thiên Lôi, mà tiền thân là 1 Biệt
Ðội của Phi Ðoàn 516, được thành vào ngày 15-9-1965 tại Nha
Trang, với Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Ðại Úy Nguyễn Quang Ninh,
và Phi Ðoàn Trưởng cuối cùng là Trung Tá Sử Ngọc Cả. Phi
Ðoàn 524 là phi đoàn đầu tiên tiếp nhận khu trục phản lực cơ
A-37.
Phi Ðoàn 534, mang danh hiệu Kim Ngưu, cũng là một phi đoàn khu
trục phản lực cơ A-37, được thành lập vào giữa năm 1972 tại
Phan Rang với Phi Ðoàn Trường đầu tiên và cũng là duy nhứt (cho
đến ngày 30-4-1975) là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thi (về sau thăng
Trung Tá)
Phi Ðoàn 548, mang danh hiệu Ó Ðen, cũng được trang bị khu trục
phản lực cơ A-37, được thành lập vào cuối năm 1972 tại Phan
Rang, với Phi Ðoàn Trường đầu tiên là Thiếu Tá Trần Mạnh Khôi
(sau thăng Trung Tá).
Ngoài
các phi đoàn khu trục phản lực cơ vừa kể trên, Không Ðoàn 92
Chiến Thuật còn có Biệt Ðội tải thương 259D với phi cơ trực
thăng UH-1.
Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 92 Chiến Thuật:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trường
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 524
|
Ðầu tiên: Ðại Úy Nguyễn Quang Ninh
Cuối cùng: Trung Tá Sử Ngọc Cả
|
Thiên Lôi
|
|
Phi Ðoàn 534
|
Trung Tá Nguyễn Văn Thi
|
Kim Ngưu
|
|
Phi Ðoàn 548
|
Trung Tá Trần Mạnh Khôi
|
Ó Ðen
|
|
Biệt Ðội 259D
|
Thiếu Tá Tô Thành Nhân
|
Nhân Ái
|
|
Sư Ðoàn 3 Không Quân
Huy hiệu Sư Ðoàn 3 Không Quân
Sư
Ðoàn 3 KQ được thành lập vào tháng 5-1970 tại Biên Hòa với Sư
Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Hỳnh Bá Tính, về sau, vào ngày
1-11-1972, vinh thăng Chuẩn Tướng. Chuần Tướng Tính tốt nghiệp
Khóa 1 (Khóa Lê Văn Duyệt) của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức
(tháng 6-1952) với cấp bậc Thiếu Úy, trúng tuyển vào KQ, và
tốt nghiệp khóa huấn luyện hoa tiêu tại Marrakech, Maroc, Bắc
Phi, trở thành một trong những phi công đầu tiên của KQ VNCH.
Trước khi đảm nhận chức vụ Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 3 KQ, Tướng
Tính đã từng giữ các chức vụ: Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn 2 Quan
Sát tại Nha Trang và Không Ðoàn Trưởng Không Ðoàn 74 Chiến Thuật
tại Cần Thơ.25
Chuẩn Tướng Huỳnh Bá Tính
Sư
Ðoàn 3 KQ gồm có 3 không đoàn là các Không Ðoàn 23 Chiến
Thuật, Không Ðoàn 43 Chiến Thuật, và Không Ðoàn 63 Chiến Thuật.
Không Ðoàn 23 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 23 Chiến Thuật
Không Ðoàn 23 Chiến Thuật được thành lập vào giữa năm
1964 tại Biên Hòa, với Không Ðoàn Trưởng đầu tiên là Trung Tá
Phạm Long Sửu, và Không Ðoàn Phó là Thiếu Tá Phạm Phú Quốc.
Không Ðoàn Trưởng cuối cùng là Ðại Tá Hoàng Thanh Nhã. Không
Ðoàn 23 gồm có tất cả 4 phi đoàn: 2 phi đoàn quan sát là các
Phi Ðoàn 112 và Phi Ðoàn 124 sử dụng các phi cơ O-1 Bird Dog và
U-17 Skywagon; và 2 phi đoàn khu trục là các Phi Ðoàn 514 và Phi
Ðoàn 518 sử dụng phi cơ khu trục A-1 Skyraider.
Phi Ðoàn 112, mà tiền thân là Phi Ðoàn 2 Quan Sát và
Trợ Chiến được thành lập vào tháng 1-1952 tại Nha Trang, di
chuyển về Tân Sơn Nhứt tháng 10-1959, đổi tên thành Phi Ðoàn 112,
danh hiệu là Thanh Xà, vào tháng 1-1963, và sau cùng chuyển về
Biên Hòa tháng 6-1964. Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Ðại Úy Võ
Dinh (cấp bậc sau cùng là Chuẩn Tướng, Tham Mưu Trưởng Bộ Tư
Lệnh Không Quân 26), và Phi Ðoàn Trưởng cuối cùng là Trung Tá Lý Thành Ba).
Phi Ðoàn 124, phi đoàn quan sát cuối cùng của KQ VNCH, mang danh
hiệu Thần Ðiểu, được thành lập vào cuối năm 1971 tại Biên Hòa,
với Phi Ðoàn Trưởng là Trung Tá Võ Trung Nhơn.
Phi
Ðoàn 514, mang danh hiệu Phượng Hoàng, là phi đoàn khu trục kỳ
cựu nhứt của Không Lực VNCH. Tiền thân của nó chính là Phi
Ðoàn 1 Khu Trục và Trinh Sát được thành lập vào năm 1956, trang
bị phi cơ F-8F Bearcat, với Chỉ Huy Trưởng đầu tiên là Ðại Úy
Huỳnh Hữu Hiền (về sau thăng cấp Ðại Tá và là Tư Lệnh Không
Quân trong một thời gian ngắn, 1962-1963). Năm 1960, phi đoàn đổi
tên thành Phi Ðoàn 514, trang bị phi cơ A1-H Skyraider, với Chỉ Huy
Trưởng là Ðại Úy Nguyễn Quang Tri. Ðại Tá Tri là một trong
những phi công khu trục đầu tiên của Việt Nam, tốt nghiệp từ
Trường Võ Bị Không Quân Pháp nổi tiếng Salon-de-Provence, là vị
chỉ huy đã đào tạo rất nhiều phi công khu trục tài ba cho
KQVNCH. Một trong những phi công này là ông Lê Bá Ðịnh về sau
là Thiếu Tá Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn khu trục 530 Thái Dương và
Trung Tá Không Ðoàn Trưởng Không Ðoàn 72 Chiến Thuật thuộc Sư
Ðoàn 6 KQ ở Pleiku. Ðại Tá Tri về sau thăng lên cấp Ðại Tá, và
là Phụ Tá Tư Lệnh KQ đặc trách về Phòng Không tại Bộ Tư Lệnh
KQ. Sau khi sang Mỹ trong diện HO, Ðại Tá Tri là người chủ
trương hai Trang Web nổi tiếng trong giới cựu quân nhân Không Quân
là Bạn Già Không Quân và Cánh Chim Tự Do. Phi Ðoàn Trưởng cuối cùng của Phi Ðoàn 514 Phượng Hoàng là Trung Tá Nguyễn Văn Vượng.
Phi
Ðoàn 518, danh hiệu Phi Long, được thành lập vào đầu năm 1964,
trang bị phi cơ khu trục A1-H Skyraider, với Chỉ Huy Trưởng đầu
tiên là Thiếu Tá Phạm Phú Quốc (là một trong 2 phi công đã ném
bom Dinh Ðộc Lập vào ngày 27-2-1962; ngày 19-4-1965, lúc đó đã
thăng lên cấp Trung Tá và đang giữ chức vụ Không Ðoàn Trưởng
Không Ðoàn 23 Chiến Thuật, ông đã hy sinh khi chỉ huy 6 phi tuần
Skyraider trong một phi vụ Bắc Phạt oanh tạc Hà Tỉnh). Phi Ðoàn
Trưởng cuối cùng là Trung Tá Lê Quốc Hùng
Phi
cơ khu trục A1-H Skyraider mà 2 Phi Ðoàn 514 và 518 được trang bị
chính là phi cơ khu trục AD-6 của hãng Douglas như trong hình
dưới đây:
Phi cơ khu trục A1-H Skyraider mang những đặc tính như sau: 27
- Chiều dài: 11,84 m
- Sải cánh: 15,25 m
- Chiều cao: 4,78 m
- Trọng lượng: 5.429 kg
- Ðộng cơ: 1 động cơ cánh quạt loại Wright R-3350-26WA, với sức đẩy 2.700 mã lực
- Vận tốc: bình phi 319 km/giờ, tối đa 518 km/giờ
- Tầm hoạt động: 2.115 km
- Cao độ tối đa: 8.685 m
- Phi hành đoàn: 1 phi công
- Trang bị hỏa lực:
. 4 đại liên 20 mm loại AN-M3
. 15 rack để gắn bom hay hỏa tiễn dưới cánh và thân mình tối đa là 3.600 kg
Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 23 Chiến Thuật:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trưởng
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 112
|
Ðầu tiên: Ðại Úy Võ Dinh
Cuối cùng: Trung Tá Lý Thành Ba
|
Thanh Xà
|
|
Phi Ðoàn 124
|
Trung Tá Võ Trung Nhơn
|
Thanh Ðiểu
|
|
Phi Ðoàn 514
|
Ðầu tiên: Ðại Úy Huỳnh Hữu Hiền
Cuối cùng: Trung Tá Nguyễn Văn Vượng
|
Phượng Hoàng
|
|
Phi Ðoàn 518
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Phạm Phú Quốc
Cuối cùng: Thiếu Tá Lê Quốc Hùng
|
Phi Long
|
|
Không Ðoàn 43 Chiến Thuật
Huy hiện Không Ðoàn 43 Chiến Thuật
Không Ðoàn 43 Chiến Thuật, được thành lập tại Biên Hòa, là
một không đoàn chuyên về trực thăng, gồm có tất cả 6 phi đoàn
và 1 biệt đội là: 1 phi đoàn trang bị trực thăng CH-47 Chinook
là Phi Ðoàn 237, 5 phi đoàn trang bị trực thăng UH-1 là các Phi
Ðoàn 221, 223, 231, 245, 251, và Biệt Ðội 259E phụ trách tải
thương cũng trang bị trực thăng UH-1. Không Ðoàn Trưởng cuối
cùng là Ðại Tá Vũ Quang Triệu.
Dưới đây là bảng liệt kê các đơn vị của Không Ðoàn 43 Chiến
Thuật với tên họ các vị chỉ huy trưởng, cùng với danh hiệu và
huy hiệu:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trường
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 221
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Nguyễn Văn Ức
Cuối cùng: Trung Tá Nguyễn Văn Trọng
|
Lôi Vũ
|
|
Phi Ðoàn 223
|
Trung Tá Trần Văn Luân
|
Lôi Ðiểu
|
|
Phi Ðoàn 231
|
Trung Tá Nguyễn Hữu Lộc
|
Lôi Vân
|
|
Phi Ðoàn 237
|
Ðầu tiên: Trung Tá Hồ Bảo Ðịnh
Cuối cùng: Trung Tá Nguyễn Phú Chính
|
Lôi Thanh
|
|
Phi Ðoàn 245
|
Trung Tá Nguyễn Hữu Lai
|
Lôi Bằng
|
|
Phi Ðoàn 251
|
Trung Tá Dương Quang Lễ
|
Lôi Thiên
|
|
Biệt Ðội 259E
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Ðặng Kim Quy
Cuối cùng: Thiếu Tá
Huỳnh Văn Du
|
Nhân Ái
|
|
Vào mùa hè 1972, Thiếu Tá Nguyễn Văn Ức, Phi Ðoàn Trưởng Phi
Ðoàn 221 (từ tháng 1-1973, là Trung Tá Không Ðoàn Phó, Không
Ðoàn 64 Chiến Thuật, thuộc Sư Ðoàn 4 KQ ở Cần Thơ), là người
chỉ huy tất cả các cuộc hành quân trực thăng vận (đổ quân),
tiếp tế, và tải thương của Phi Ðoàn 221 cho chiến trường An
Lộc.28
Không Ðoàn 63 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 63 Chiến Thuật
Ðây
là một không đoàn gồm toàn khu trục phản lực cơ F-5. Do đó
Không Ðoàn 63 Chiến Thuật cũng được biết đến dưới biệt danh
(nickname) là Không Ðoàn F-5 và hồm có tất cả 6 Phi Ðoàn sử
dụng phản lực cơ F-5: đó là các Phi Ðoàn 522, 536, 538 (biệt
phái cho Sư Ðoàn 1 KQ tại Ðà Nẵng, như đã ghi chú bên trên), 540,
542, và 544, với danh hiệu, huy hiệu, và chỉ huy trưởng như sau:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trưởng
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 522
|
Ðại Úy Nguyễn Quốc Hưng
|
Thần Ưng
|
|
Phi Ðoàn 536
|
Thiếu Tá Ðàm Thượng Vũ
|
Thiên Ưng
|
|
Phi Ðoàn 538
|
Thiếu Tá Phạm Ðình Anh
|
Hồng Tiễn
|
|
Phi Ðoàn 540
|
Thiếu Tá Nguyễn Tiến Thành
|
Hắc Ưng
|
|
Phi Ðoàn 542
|
Thiếu Tá Trịnh Bửu Quang
|
Kim Ưng
|
|
Phi Ðoàn 544
|
Thiếu Tá Nguyễn Văn Tường
|
Hải Ưng
|
|
Sư Ðoàn 4 Không Quân
Huy hiệu Sư Ðoàn 4 Không Quân
Sư Ðoàn 4 KQ được thành lập vào tháng 3-1970 tại Cần Thơ với
Sư Ðoàn Trưởng đầu tiên là Ðại Tá Nguyễn Huy Ánh, về sau, vào
ngày 1-11-1971, vinh thăng Chuẩn Tướng. Tướng Ánh là dân chính
trúng tuyển vào KQ, được gửi sang Pháp theo học các khóa huấn
luyện hoa tiêu, và tốt nghiệp thủ khoa khóa 1955 với cấp bậc
Thiếu Úy. Ông cũng là một trong những phi công trực thăng đầu
tiên được huấn luyện tại Hoa Kỳ. Trước khi được bổ nhiệm vào
chức vụ Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 4 KQ, Tướng Ánh đã từng là Phi
Ðoàn Trưởng các Phi Ðoàn trực thăng 215, 211, và Không Ðoàn
Trưởng các Không Ðoàn Chiến Thuật 74 và 62. Chuẩn Tướng Ánh tử
nạn trực thăng vì công vụ ngày 27-4-1972, và được truy thăng lên
cấp Thiếu Tướng 29
Thiếu Tướng Nguyễn Huy Ánh
Sau đó Ðại Tá Nguyễn Hữu Tần, đang giữ chức vụ Tham Mưu Phó
Hành Quân tại Bộ Tư Lệnh KQ, được đề cử thay thế Thiếu Tướng
Ánh làm Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 4 KQ vào cuối tháng 4-1972. Ngày
1-4-1974, Ðại Tá Tần vinh thăng Chuẩn Tướng. Tướng Tần tốt
nghiệp Khóa 1 (Khóa Lê Lợi) Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Ðịnh
(tháng 6-1952) với cấp bậc Thiếu Úy; sau đó chuyển sang KQ, theo
học và tốt nghiệp Thủ Khoa Khóa 5 Hoa Tiêu Quan Sát (1956) tại
Trung Tâm Huấn Luyện KQ Nha Trang. Trước khi được bổ nhiệm vào
chức vụ Sư Ðoàn Trưởng Lệnh Sư Ðoàn 4 KQ, ông đã từng giữ các
chức vụ: Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn 1 và Phi Ðoàn 2 Quan Sát,
Không Ðoàn Phó Không Ðoàn 62 Chiến thuật lúc mới thành lập do
Trung Tá Trần Văn Minh (sau là Trung Tướng Tư Lệnh KQ) là Không
Ðoàn Trưởng.30
Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần
Sư Ðoàn 4 KQ gồm có 3 không đoàn là Không Ðoàn 64 Chiến Thuật,
Không Ðoàn 74 Chiến Thuật, và Không Ðoàn 84 Chiến Thuật.
Không Ðoàn 64 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 64 Chiến Thuật
Không
Ðoàn 64 Chiến Thuật đóng tại Cần Thơ, với Không Ðoàn Trưởng
là Trung Tá Trương Thành Tâm (trước là Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn
trực thăng 217), gồm có tất cả 3 phi đoàn và 1 biệt đội trực
thăng: 2 phi đoàn trực thăng UH-1 là Phi Ðoàn 217 và Phi Ðoàn 255,
1 phi đoàn trực thăng CH-47 Chinoook là Phi Ðoàn 249, và 1 biệt
đội tải thương là Biệt Ðội 259F cũng sử dụng trực thăng UH-1.
Phi Ðoàn 217, mang danh hiệu Thần Ðiểu, là một trong những phi
đoàn trực thăng đầu tiên của KQ VNCH khi chuyển từ trực thăng
H-19 của KQ Pháp giao lại sang trực thăng H-34. Thành lập tại
Ðà Nẵng vào tháng 4-1964, Phi Ðoàn 217 có ban chỉ huy đầu tiên
như sau: 31
- Chỉ Huy Trưởng: Ðại Úy Ong Lợi Hồng (cấp bậc sau cùng là Ðại Tá, Sư Ðoàn Phó Sư Ðoàn 4 KQ)
- Chỉ Huy Phó: Trung Úy Mai Văn Hải
- Sĩ Quan Hành Quân: Thiếu Úy Nguyễn Văn Phú Hiệp
- Sĩ Quan An Phi: Thiếu Úy Hồng Văn Tý
- Sĩ Quan Kỹ Thuật: Chuẩn Úy Trần Phước Hội
Sau
đó phi đoàn chuyển về đóng tại Tân Sơn Nhứt một thời gian rồi
chuyển về và đồn trú vĩnh viễn tại phi trường Trà Nóc ở Cần
Thơ. Một thời gian sau, Phi Ðoàn 217 có ban chỉ huy mới với
Thiếu Tá (về sau thăng lên Trung Tá) Trương Thành Tâm làm Phi
Ðoàn Trưởng và Ðại Úy Nguyễn Thanh Hải (về sau thăng lên Trung
Tá, công tác tại Phòng Thanh Tra, phụ trách về An Phi, tại Bộ
Tư Lệnh KQ) là Phi Ðoàn Phó. Phi Ðoàn Trưởng cuối cùng là
Trung Tá Nguyễn Văn Vọng. Sau khi về Trà Nóc một thời gian, Phi
Ðoàn 217 chuyển sang trang bị trực thăng UH-1.
Phi
Ðoàn 255, mang danh hiệu Xà Vương, là một trong những phi đoàn
trực thăng UH-1 được thành lập sau cùng (đầu năm 1973) của KQ
VNCH, với Phi Ðoàn Trưởng là Trung Tá Nguyễn Kim Huờn.
Phi
Ðoàn 249 là phi đoàn trực thăng CH-47 Chinook được thành lập sau
cùng (tháng 12-1972) của KQ VNCH, với Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên
là Thiếu Tá Tống Phước Hào (về sau thăng cấp lên Trung Tá).
Ðơn
vị cuối cùng của Không Ðoàn 64 Chiến Thuật là một phi đội
UH-1 chuyên thực hiện các phi vụ tải thương: đó là Biệt Ðội
259F mà Chỉ Huy Trưởng là Thiếu Tá Nguyễn Thành Quới.
Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các đơn vị của Không Ðoàn 64 Chiến Thuật:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trưởng
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 217
|
Ðầu tiên: Ðại Úy Ong Lợi Hồng
Cuối cùng: Trung Tá Nguyễn Văn Vọng
|
Thần Ðiểu
|
|
Phi Ðoàn 249
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Tống Phước Hào
Thứ nhì: Thiếu Tá Phạm Văn Trung
Cuối cùng: Thiếu Tá Phạm Xuân Việt
|
Mãnh Long
|
|
Phi Ðoàn 255
|
Trung Tá Nguyễn Kim Hườn
|
Xà Vương
|
|
Biệt Ðội 259F
|
Thiếu Tá Nguyễn Thành Quới
|
Nhân Ái
|
|
Ghi chú:
Thiếu Tá Phạm Văn Trung, vào KQ Khóa 63A, đã từng phục vụ tại
các phi đoàn trực thăng 215, 219, 237, 241, nhậm chức Phi Ðoàn
Trường Phi Ðoàn 249 (Chinook) ngày 10-12-1974, và hy sinh ngày
12-12-1974 tại chiến trường Mộc Hóa khi chiếc Chinook của ông bị
trúng hỏa tiễn tầm nhiệt SA7. Ông được truy thăng lên Trung Tá.32
Không Ðoàn 74 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 74 Chiến Thuật
Không Ðoàn 74 Chiến Thuật được thành lập tại Cần Thơ vào
tháng 4-1964 với các vị Không Ðoàn Trưởng lần lượt như sau: đầu
tiên là Trung Tá Trần Văn Minh (về sau là Trung Tướng Tư Lệnh
KQ), thứ nhì là Trung Tá Huỳnh Bá Tinh (về sau là Chuẩn Tướng
Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 3 KQ), thứ ba là Trung Tá Nguyễn Huy Ánh
(về sau là Chuẩn Tướng Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 4 KQ), và cuối
cùng là Ðại Tá Nguyễn Quang Ninh. Không Ðoàn 74 Chiến Thuật
gồm có tất cả 5 phi đoàn:
- 2 phi đoàn quan sát: Phi Ðoàn 116 sử dụng phi cơ O-1 Bird Dog, và Phi Ðoàn 122 sử dụng phi cơ U-17A/B Skywagon
-
3 phi đoàn khu trục: Phi Ðoàn 520, Phi Ðoàn 526, và Phi Ðoàn 546
tất cả đều trang bị khu trục phản lực cơ A-37B Dragonfly
Phi Ðoàn 116, mang danh hiệu Sơn Ca (trước là Thần Ưng), được
thành lập vào tháng 6-1964 tại Nha Trang, sau đó chuyển về Cần
Thơ vào tháng 7-1964. Phi Ðoàn Trưởng cuối cùng (xử lý thường
vụ) là Trung Tá Bùi Thanh Sử.
Phi Ðoàn 122, mang danh hiệu Hoa Mi (trước là Thần Tiễn), được
thành lập vào tháng 8-1972, với Phi Ðoàn Trưởng là Trung Tá
Trần Trọng Khương.
Phi Ðoàn 520, mang danh hiệu Thần Báo, được thành lập năm 1964
tại Biên Hòa, với Chỉ Huy Trưởng đầu tiên là Ðại Úy Nguyễn
Ngọc Biện, trang bị phi cơ khu trục cánh quát A-1H Skyraider, di
chuyển về Cần Thơ vào giữ năm 1965, và đến năm 1968 thì chuyển
sang trang bị với khu trục phản lực cơ A-37.
Phi
Ðoàn 526, mang danh hiệu Quỷ Vương, được thành lập năm 1971 tại
Cần Thơ, với Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Huỳnh Hữu
Hải.
Phi Ðoàn 546, mang danh hiệu Thiên Sứ, được thành lập vào cuối
năm 1972, với Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Lê Mộng Hoan.
Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 74 Chiến Thuật:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trưởng
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 116
|
Trung Tá Bùi Thanh Sử
|
Sơn Ca
|
|
Phi Ðoàn 122
|
Trung Tá Trần Trọng Khương
|
Họa Mi
|
|
Phi Ðoàn 520
|
Ðại Úy Nguyễn Ngọc Biên
|
Thần Báo
|
|
Phi Ðoàn 526
|
Thiếu Tá Huỳnh Hữu Hải
|
Quỷ Vương
|
|
Phi Ðoàn 546
|
Thiếu Tá Lê Mộng Hoan
|
Thiên Sứ
|
|
Không Ðoàn 84 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 84 Chiến Thuật
Không
Ðoàn 84 Chiến thuật, được thành lập tại Sóc Trăng sau dời về
Cần Thơ, gồm có 3 phi đoàn UH-1 là các Phi Ðoàn 211, 225 và 227,
và 1 biệt đội tải thương cũng sử dụng trực thăng UH-1 là Biệt
Ðội 259H, với các vị chỉ huy, danh hiệu và huy hiệu như sau:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trưởng
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 211
|
Ðầu tiên: Ðại Úy Nguyễn Ðức Hớn
Cuối cùng: Trung Tá Trần Quế Lâm
|
Thần Chùy
|
|
Phi Ðoàn 225
|
Trung Tá Lê Văn Châu
|
Ác Ðiểu
|
|
Phi Ðoàn 227
|
Trung Tá Trần Châu Rết
|
Hải Âu
|
|
Biệt Ðội 259H
|
Thiếu Tá Nguyễn Trọng Thanh
|
Nhân Ái
|
|
Sư Ðoàn 5 Không Quân
Huy hiệu Sư Ðoàn 5 Không Quân
Sư Ðoàn 5 KQ được thành lập vào tháng 1-1971 tại Căn Cứ KQ Tân
Sơn Nhứt với Sư Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Phan Phụng Tiên, về sau,
vào ngày 1-11-1972, vinh thăng Chuẩn Tướng. Tướng Tiên tốt
nghiệp Khóa 1 (Khóa Lê Lợi) Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Ðịnh
(tháng 6-1952) với cấp bậc Thiếu Úy. Sau đó ông chuyển sang KQ.
Ông tốt nghiệp Khóa 52F1 tại Marrakech, Maroc, Bắc Phi cùng với
các ông Huỳnh Hữu Hiền (về sau là Ðại Tá Tư Lệnh KQ,
1962-1963), Phạm Ngọc Sang (về sau là Chuẩn Tướng Sư Ðoàn Trưởng
Sư Ðoàn 6 KQ), và Huỳnh Bá Tính (về sau là Chuẩn Tướng Sư
Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 3 KQ). Năm 1954 ông thăng cấp Ðại Úy và làm
Chỉ Huy Trưởng Phi Ðoàn 1 Vận Tải. Ông chính là phi công trưởng
lái chiếc vận tải cơ C-47 đưa Ðại Tá Nguyễn Chánh Thi và các
sĩ quan nhảy dù sang tị nạn chính trị tại Cao Miên sau khi cuộc
đảo chánh ngày 11-11-1960 thất bại. Sau khi cuộc đảo chánh
ngày 1-11-1963 thành công, ông trở về nước, thăng cấp Thiếu Tá.
Năm 1968, ông thăng cấp Ðại Tá và được bổ nhiệm làm Chỉ Huy
Trưởng Căn Cứ Tân Sơn Nhứt sau khi Ðại Tá Lưu Kim Cương tử trận.33
Chuẩn Tướng Phan Phụng Tiên
Sư Ðoàn 5 KQ gồm có 2 không đoàn: Không Ðoàn 33 Chiến Thuật và Không Ðoàn 53 Chiến Thuật.
Không Ðoàn 33 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 33 Chiến Thuật
Không Ðoàn 33 Chiến Thuật, đóng tại Tân Sơn Nhứt, được thành
lập vào tháng 1-1964 với Chỉ Huy Trưởng lần lượt là các sĩ
quan cao cấp sau đây:
- Ðại Tá Hà Xuân Vịnh
- Ðại Tá Phạm Ngọc Sang
- Trung Tá Lưu Kim Cương
- Ðại Tá Dương Thiệu Hùng
- Ðại Tá Phan Phụng Tiên
- Ðại Tá Bùi Ðức Mỹ
Không
Ðoàn 33 gồm có tất cả 5 phi đoàn và 1 biệt đội: Phi Ðoàn đặc
nhiệm 314, 2 Phi Ðoàn vận tải 429 và 431, 2 Phi Ðoàn không thám
điện tử 716 và 718, và Biệt Ðội tải thương 259G.
Phi Ðoàn đặc nhiệm 314, mang danh hiệu Thần Tiễn, với
Phi Ðoàn Trưởng đầu tiên là Thiếu Tá Nguyễn Hữu Trí, trên
nguyên tắc là một phi đoàn vận tải, sử dụng một số phi cơ vận
tải như C-47, DC-6B, nhưng trên thực tế đây là một phi đoàn đặc
nhiệm chuyên phụ trách việc chuyên chở các yếu nhân chính trị
và quân sự của chính phủ VNCH. Do đó trong giới KQ người ta
thường gọi Phi Ðoàn 314 là Phi Ðoàn VIP (chữ tắt tiếng Anh mà
giới truyền thông Hoa Kỳ thường sử dụng: Very Important Persons =
Những Người Rất Quan Trọng).34
Phi cơ C-47 của Phi Ðoàn 314 Thần Tiễn
Phi cơ DC-6B của Phi Ðoàn 314 Thần Tiễn
Hai
Phi Ðoàn 429 và 431, cùng với Phi Ðoàn 427 (đã đề cập đến
trong phần về Sư Ðoàn 1 KQ bên trên) đều là các phi đoàn vận
tải sử dụng phi cơ C-7A Caribou. Cả 3 phi đoàn này đều được
thành lập tại Căn Cứ KQ Phù Cát, thuộc tỉnh Bình Ðịnh, đầu
tiên là Phi Ðoàn 427 (tháng 2-1972), kế đến là Phi Ðoàn 429
(tháng 4-1972), và sau cùng là Phi Ðoàn 431 (tháng 6-1972).
Tháng 6-1972, Phi Ðoàn 427 di chuyển ra đóng tại Căn Cứ Ðà Nẵng
và trực thuộc Không Ðoàn 41 của Sư Ðoàn 1 KQ. Phi Ðoàn 429, có
danh hiệu là Sơn Long, với Chỉ Huy Trưởng là Trung Tá Cung Thăng
An, Chỉ Huy Phó là Trung Tá Nguyễn Viết Xương; tháng 4-1973, phi
đoàn di chuyển về Căn Cứ Tân Sơn Nhứt và trực thuộc Không Ðoàn
33 Chiến Thuật. Phi Ðoàn 431, có danh hiệu là Phương Long, với
Chì Huy Trưởng là Trung Tá Nguyễn Viết Xương (từ Phi Ðoàn 429
chuyển sang), Chỉ Huy Phó là Thiếu Tá Huỳnh Ngọc Nghĩa, và
Trưởng Phòng Hành Quân là Thiếu Tá Nguyễn Ðình Thảo; tháng
11-1972, phi đoàn di chuyển về Căn Cứ Tân Sơn Nhứt và trực thuộc
Không Ðoàn 33 Chiến Thuật.35
Hai Phi Ðoàn 716 và 718 là những phi đoàn không thám điện tử,
tuy là các đơn vị của Sư Ðoàn 5 KQ, nhưng thật ra là những phi
đoàn đặt dưới sự điều động của Ðơn Vị 17 của Phòng 7 Bộ Tổng
Tham Mưu (đặc trách về tình báo tín hiệu –Signal Intelligence
hay SIGINT--).36
Phi
Ðoàn 716 sử dụng phi cơ U-6A Beaver là một kiểu đã được thiết
kế lại của phi cơ quan sát L-20 của hãng de Havilland (Canada) như
trong hình sau đây:
Phi cơ U-6A Beaver
Phi cơ U-6A Beaver mang những đặc tính như sau:
- Chiều dài: 9,24 m
- Sải cánh: 14,63 m
- Chiều cao: 2,74 m
- Trọng lượng: 1.293 kg
- Ðộng cơ: 1 động cơ cánh quạt Pratt & Whitner loại R-985-AN, với sức đẩy 450 mã lực
- Vận tốc: bình phi 177 km/giờ, tối đa 225 km/giờ
- Tầm hoạt động: 1.239 km
- Phi hành đoàn: 1 phi công
- Trang bị hỏa lực: không có
Phi Ðoàn 718 được chính thức thành lập vào năm 1973 tại Căn Cứ KQ Tân Sơn Nhứt với ban chỉ huy như sau: 37
- Phi Ðoàn Trưởng: Trung Tá Nguyễn Hữu Bách
- Phi Ðoàn Phó: Thiếu Tá Phan Văn Lộc
- Phụ trách Ðiều Hành Viên: Thiếu Tá Nguyễn Văn Thắng
Phi
Đoàn 718 thực hiện các phi vụ không thám điện tử (thường có thời
gian từ 3 đến 5 giờ đồng hồ), là một phi đoàn có quân số lớn nhất
với hơn 500 quân nhân các cấp và 36 phi cơ EC-47 được trang bị với hệ
thống ALR-34. Phi hành đoàn âm thầm thi hành nhiệm vụ, không bao giờ
tiết lộ việc hành quân kể cả người thân. Nhân viên Phi Đoàn 718 phải qua
máy nói sự thật (Polygragh test) và tuân theo những luật lệ đặc biệt
như phải giữ bí mật về hoạt động và nhất là không được chụp ảnh của phi
cơ bất luận bên trong hay bên ngoài. Vì lý do nầy hình ảnh hoạt động
của Phi Đoàn 718 rất hiếm.
Phi cơ EC-47D Dakota
Phi cơ EC-47D Dakota chính là một dạng phi cơ quân sự của phi cơ DC-3 Dakota của hãng Douglas, được đặc biệt trang bị thêm các máy móc điện tử dùng trong không thám điện tử. Phi cơ DC-3 Dakota nổi
tiếng là chiếc phi cơ được thiết kế thành công nhứt trong lịch
sử hàng không thế giới (hiện nay DC-3 là phi cơ đang còn được
sử dụng có tuổi đời cao nhứt thế giới –ra đời từ năm 1936-- ;
vào năm 2013 người ta ước lượng vẫn còn có khoảng 2.000 chiếc
DC-3 còn đang được sử dụng trên khắp thế giới).
Phi cơ EC-47D Dakota mang những đặc tính như sau: 38
- Chiều dài: 19,43 m
- Sải cánh: 29,41 m
- Chiều cao: 5,18 m
- Trọng lượng: 8.226 kg
- Ðộng cơ: 2 động cơ cánh quạt Pratt & Whitney R-1830-90C, 1,200 mã lực mỗi cái
- Vận tốc: 380 km/giờ
- Tầm hoạt động: 2,575 km
- Cao độ tối đa: 8.045 m
- Phi hành đoàn: 3
-
Trang bị: không trang bị vũ khí, chỉ có 16 trái khói ở sau
đuôi đề chống hỏa tiễn tầm nhiệt SA7; bên trong phi cơ trang bị
các máy móc điện tử để truy tầm và chận bắt các mẫu truyền
tin của địch quân, và đặc biệt là để truy tầm và định vị các
máy phát tín hiệu của địch quân thường được gọi tắt là ARDF
(airborne radio direction finding), chuyện này rất quan trọng vì
máy phát tín hiệu thường là bên cạnh các vị chỉ huy các đơn
vị tác chiến ngay tại chiến trường. Sau khi xác định được
đường kính của khu vực mục tiêu (khoàng 300 m), các oanh tạc cơ
(có khi là cả phi cơ B-52) sẽ được gọi đến để thanh toán mục
tiêu.
Biệt Ðội tải thương 259G, cũng như tất cả các biệt đội thuộc Phi Ðoàn 259, sử dụng phi cơ trực thăng UH-1.
Bên dưới là bảng liệt kê danh hiệu và huy hiệu của các phi đoàn thuộc Không Ðoàn 33 Chiến Thuật:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trưởng
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 314
|
Trung Tá Ðặng Ngọc Hiển
|
Thần Tiễn
|
|
Phi Ðoàn 429
|
Trung Tá Cung Thăng An
|
Sơn Long
|
|
Phi Ðoàn 431
|
Trung Tá Nguyễn Viết Xương
|
Phương Long
|
|
Phi Ðoàn 716
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Nguyễn Anh Tuấn
Cuối cùng: Trung Tá Huỳnh Minh Thoại
|
Hoàng Long
|
|
Phi Ðoàn 718
|
Trung Tá Nguyễn Hữu Bách
|
Thiên Long
|
|
Biệt Ðội 259G
|
Thiếu Tá Trần Quang Võ
|
Nhân Ái
|
|
Không Ðoàn 53 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 53 Chiến Thuật
Không Ðoàn 53 Chiến Thuật, với Không Ðoàn Trưởng là Ðại Tá
Huỳnh Văn Hiến, cũng đồn trú tại Căn Cứ KQ Tân Sơn Nhứt, gồm
có tất cả 8 phi đoàn:
- Phi Ðoàn 413 sử dụng phi cơ C-119 Flying Boxcar;
- 3 Phi Ðoàn 421, 423, và 425 sử dụng phi cơ C-123 Provider
- 2 Phi Ðoàn 435 và 437 sử dụng phi cơ C-130 Hercules
- 2
phi đoàn yểm trợ hỏa lực (hay vận tải võ trang, gunships, hay
cường kích, hỏa long) là Phi Ðoàn 819 với phi cơ AC-119G Shadow
và Phi Ðoàn 821 với phi cơ AC-119K Stinger.
Phi
Ðoàn 413, mang danh hiệu Xích Long, tiếp nhận 16 phi cơ C-119G
vào năm 1968, hoạt động được 3 năm và bị giải tán vào cuối năm
1971, tất cả nhân viên của phi đoàn được điều sang Phi Ðoàn 821
sử dụng phi cơ AC-119K Stinger
Phi
Ðoàn 421 được thành lập vào tháng 4-1971 với Phi Ðoàn Trưởng
là Thiếu Tá Nguyễn Quế Sơn. Phi Ðoàn 423 được thành lập vào
tháng 7-1971 với Phi Ðoàn Trưởng là Thiếu Tá Mạc Hữu Lộc. Phi
Ðoàn 425 được thành lập vào tháng 12-1974 với Phi Ðoàn Trưởng
là Thiếu Tá Nguyễn Thế Thân. Mổi phi đoàn đều được trang bị
16 chiếc C-123K. Sau 2 năm hoạt động tổng cộng có tất cả 10
chiếc trong tổng số 48 chiếc C-123K Provider của 3 phi đoàn này
đã bị rớt, trong đó có 4 chiếc bị hỏa lực địch bắn hạ. Cả 3
phi đoàn này bị giải tán vào đầu năm 1973 và toàn bộ phi cơ
C-123 đã bị trả lại cho quân đội Mỹ.39
Hai Phi Ðoàn 435 và 437 đều được trang bị giống nhau: mỗi phi đoàn 16 chiếc vận tải cơ C-130 Hercules.
Phi
cơ C-119 Flying boxcar là loại phi cơ vận tải với 2 động cơ cánh
quạt do công ty Fairchild sản xuất như hình dưới đây:
Phi cơ vận tải C-119 Flying Boxcar
Phi cơ C-119 Flying Boxcar mang những đặc tính như sau: 40
- Chiều dài: 26,37 m
- Sải cánh: 33,3 m
- Chiều cao: 8,08 m
- Trọng lượng: 18.053 kg
-
Ðộng cơ: 2 động cơ cánh quạt Pratt & Whitney loại 28 xy-lanh
R-4360-20W, với sức đẩy 3.500 mã lực mỗi cái
- Vận tốc: bình phi 174 km/giờ, 242 km/giờ
- Cao độ tối đa: 7.300 m
- Tầm hoạt động: 2.849 km
-
Phi hành đoàn: 5 người gồm 2 phi công, 1 điều hành viên
(navigator), 1 truyền tin (radio operator), và 1 crew chief
- Khả năng vận chuyển:
. người: 67 binh sĩ, hoặc 35 cáng thương binh
. hàng hóa: 12.500 kg
Phi
cơ C-123 Provider cũng là 1 phi cơ vận tải với 2 động cơ cánh
quạt do công ty Fairchild sản xuất như trong hình dưới đây:
Phi cơ vận tải C-123 Provider
Phi cơ C-123 Provider mang những đặc tính như sau: 41
- Chiều dài: 23,25 m
- Sải cánh: 33,53 m
- Chiều cao: 10,39 m
- Trọng lượng: 16.042 kg
-
Ðộng cơ: 2 động cơ cánh quạt Pratt & Whitney loại R-2800-99W,
với sức đẩy 2.500 mã lực mỗi cái; và 2 động cơ bán phản lực
General Electric loại J85-GE-17 turbojet, với sức đẩy 2.850 lbf mỗi
cái
- Vận tốc: bình phi 278 km/giờ, 367 km/giờ
- Cao độ tối đa: 6.430 m
- Tầm hoạt động: 1.666 km
- Phi hành đoàn: 4 người
- Khả năng vận chuyển:
. người: 60 binh sĩ, hoặc 50 cáng thương binh
. hàng hóa: 11.000 kg
Phi
cơ C-130 Hercules là phi cơ vận tải lớn nhứt, với 4 động cơ
cánh quạt, được Hoa Kỳ chuyển giao cho KQ VNCH trong kế hoạch
Enhance Plus sau khi Hiệp Ðịnh Paris được ký kết vào đầu năm
1973:
Phi cơ vận tải C-130A Hercules
Phi cơ C-130A Hercules mang những đặc tính như sau: 42
- Chiều dài: 29, m
- Sải cánh: 40,4 m
- Chiều cao: 11,6 m
- Trọng lượng: 34.400 kg
- Ðộng cơ: 4 động cơ cánh quạt loại Allison T56-A-15 turboprops, với sức đẩy 4590 mã lực mỗi cái
- Vận tốc: bình phi 540 km/giờ, tối đa 592 km/giờ
- Cao độ tối đa: 7.700 m
- Tầm hoạt động: 3.800 km
-
Phi hành đoàn: 5 người gồm 2 phi công, 1 điều hành viên
(navigator), 1 cơ phi, 1 phụ trách cất hàng (loadmaster)
- Khả năng vận chuyển:
. người: 92 hành khách, hoặc 64 binh sĩ nhảy dù, hoặc 74 cáng thương binh với 5 nhân viên quân y
. xe cộ: 2-3 xe jeep loại Humvees, hoặc 2 thiết vận xa M113, hoặc 1 đại bác 155 mm loại Caesar self-propelled howitzer
Phi Ðoàn 821, một phi đoàn yểm trợ hỏa lực (hay vận tải võ
trang, gunships, hay hỏa long hay cường kich), mang danh hiệu Tinh
Long, được thành lập khoảng đầu năm 1973 tại Căn Cứ KQ Tân Sơn
Nhứt, khi Không Lực Hoa Kỳ chuyển giao tất cả phi cơ AC-119K cho
KQ VNCH theo Chương trình “Enhance Plus” sau khi Hiệp Ðịnh Paris
được ký kết. Ngoài các phi đội đóng tại Tân Sơn Nhứt để yểm
trợ cho Vùng III và Vùng IV, Phi Ðoàn 821 còn có thêm 2 Biệt
đội, một đóng tại Ðà Nẵng để yểm trợ cho Vùng I và một Biệt
Ðội đóng tại Phù Cát để yểm trợ cho Vùng II; sau vụ triệt
thoái của Quân Ðoàn II giữa tháng 3-1975, Biệt Ðội đóng tại
Phù Cát phải di chuyển về Phan Rang, và vài ngày sau thì di
chuyển về Tân Sơn Nhứt luôn. Phi Ðoàn 821 gồm có một ban chỉ
huy như sau: 43, 44
- Phi Ðoàn Trưởng: Trung Tá Hoàng Nuôi
- Phi Ðoàn Phó: Thiếu Tá Nguyễn Minh Nhựt
- Sĩ quan hành quân: Thiếu Tá Nguyễn Hồng Sơn (Sơn voi)
- Sĩ quan huấn luyện: Ðại Úy Nguyễn Văn Chẩn
-
Sĩ quan an phi: Ðại Úy Nguyễn Trọng Quỳnh (thay cho Ðại Úy
Nguyễn Phúc Hải tử nạn trong một phi vụ huấn luyện)
Phi
Ðoàn 821 gồm khoảng 300 nhân viên bao gồm các hoa tiêu (phi công
chánh và phụ), điều hành viên, cơ phi, chuyên viên hỏa châu và
xạ thủ đại liên. Các phi vụ của Phi Ðoàn Tinh Long 821 luôn luôn
được thực hiện vào ban đêm để yểm trợ cho các xã ấp, quận
ly, tiền đồn, hẻo lánh, xa xôi đang bị Cộng quân lợi dụng việc
tiếp viện khó khăn để tấn công và mưu toan tràn ngập.
Phi Ðoàn Tinh Long 821 được trang bị phi cơ AC-119K Stinger mang những đặc tính sau đây: 45
- Chiều dài: 26,36 m
- Sải cánh: 33,31 m
- Chiều cao: 8,13 m
- Trọng lượng: 36.468 kg
-
Ðộng cơ: 2 động cơ cánh quạt Wright R-3350s, 3.500 mã lực mỗi
cái; và 2 turbojet General Electric J85-GE-17, sức đẩy 1.293 kg mỗi
cái
- Vận tốc: 330 km/giờ
- Tầm hoạt động: 5 giờ đồng hồ
- Cao độ tối đa: 2.133 m
-
Phi hành đoàn: 10 người gồm 1 phi công chánh, 1 phi công phụ,
1 điều hành viên (navigator), 1 quan sát viên (night observation
sight NOS operator), 1 chuyên viên radar, 1 cơ phi, 1 chuyên viên hỏa
châu, và 3 xạ thủ đại liên
- Trang thiết bị và hỏa lực hỏa lực:
. 4 khẩu đại liên 7,62 mm loại SUU-11A với 21.500 viên đạn; về sau được thay bằng loại MXU-470/A
.
2 khẩu đại liên 20 mm loại M61-A1 với 3.000 viên đạn (hai loại
đại liên này đều được điều khiển bằng máy vi tính)
. 24 hỏa châu loại MK-24 với máy phóng LAU-74/A
. 1 đèn rọi có độ sáng 1,5 triệu nến
.
3 loại máy radar: APQ-136 (forward looking radar), AAD-4 (forward
looking infrared radar), và AN/APQ-133 (beacon tracking radar)
. máy chống radar địch APR-25/26 (electronic countermeasures (ECM) warning device)
Trong tháng 4-1975, cũng như một số đơn vị khác của Sư Ðoàn I
đã di tản về đồn trú tại Căn Cứ KQ Tân Sơn Nhứt, Phi Ðoàn 821
vẫn còn tiếp tục chiến đấu và hy sinh trong ngày cuối cùng
của cuộc chiến như trong bài viết sau đây: 46
"
... Khoảng 7 giờ sáng ngày 29 tháng 4, Tinh Long 7, chiếc AC-119K cuối
cùng, đang tiêu diệt VC ở vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất, bị trúng hỏa
tiễn SA-7 bốc cháy và nổ tung trên bầu trời, phi hành đoàn hy sinh ... "
Dưới đây là bảng tóm lược thông tin về các phi đoàn của Không Ðoàn 53 Chiến Thuật:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trưởng
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 413
|
Chưa tìm được
|
Xích Long
|
|
Phi Ðoàn 421
|
Thiếu Tá Nguyễn Quế Sơn
|
Chưa tìm được
|
|
Phi Ðoàn 423
|
Thiếu Tá Mạc Hữu Lộc
|
Chưa tìm được
|
|
Phi Ðoàn 425
|
Thiếu Tá Nguyễn Thế Thân
|
Chưa tìm được
|
|
Phi Ðoàn 435
|
Trung Tá Lâm Văn Phiếu
|
Chưa tìm được
|
|
Phi Ðoàn 437
|
Trung Tá Mạc Mạnh Cầu
|
Chưa tìm được
|
|
Phi Ðoàn 819
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Ðặng Văn Ðức
Cuối cùng: Trung Tá Nguyễn Văn Hồng
|
Hắc Long
|
|
Phi Ðoàn 821
|
Trung Tá Hoàng Nuôi
|
Tinh Long
|
|
Sư Ðoàn 6 Không Quân
Huy hiệu Sư Ðoàn 6 Không Quân
Sư Ðoàn 6 Không Quân được thành lập vào tháng 6-1972 tại Pleiku,
về sau, sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và Quân Ðoàn II phải
triệt thoái khỏi Pleiku giữa tháng 3-1975, phải di chuyển về
Phan Rang. Sư Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Phạm Ngọc Sang, về sau,
vào ngày 1-4-1974, vinh thăng Chuẩn Tướng. Tướng Sang tốt nghiệp
Khóa 1 (Khóa Lê Văn Duyệt) Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức
(tháng 6-1952) với cấp bậc Thiếu Úy. Tháng 10-1952, ông trúng
tuyển vào KQ, được gởi sang Pháp và Maroc theo học các khóa hoa
tiêu vận tải, và thăng cấp Trung Úy trong thời gian này. Ðầu
năm 1955 ông về nước và tháng 10 thăng cấp Ðại Úy và giữ chức
vụ Chỉ Huy Trường Phi Ðội liên lạc (tiền thân của Phi Ðoàn đặc
vụ 314 sau này). Trước khi được bổ nhiệm vào chức vụ Sư Ðoàn
Trưởng Sư Ðoàn 6 KQ, ông đã từng giữa các chức vụ: Chỉ Huy
Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện KQ Nha Trang và Không Ðoàn Trưởng
Không Ðoàn 33 Chiến Thuật tại Tân Sơn Nhứt.47
Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang
Sư Ðoàn 6 Không Quân gồm có hai không đoàn là Không Ðoàn 72 Chiến Thuật và Không Ðoàn 82 Chiến Thuật.
Không Ðoàn 72 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 72 Chiến Thuật
Không Ðoàn 72 Chiến Thuật, đồn trú tại Pleiku, với Không Ðoàn
Trưởng đầu tiên là Trung Tá Lê Bá Ðịnh và cuối cùng là Trung
Tá Lê Văn Bút (trước là Phi Ðoàn Trưởng Phi Ðoàn trực thăng
229), gồm có các phi đoàn sau đây: Phi Ðoàn quan sát 118, 2 Phi
Ðoàn trực thăng 229 và 235, Phi Ðoàn khu trục 530, và Biệt Ðội
tải thương 259B, với các vị chỉ huy, danh hiệu và huy hiệu như
sau:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trưởng
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 118
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Võ Công Minh
Thứ nhì: Trung Tá Võ Ý
Cuối cùng (XLTV): Nguyễn Văn Ðược
|
Bắc Ðẩu
|
|
Phi Ðoàn 229
|
Ðầu tiên: Trung Tá Lê Văn Bút
Cuối cùng: Trung Tá Ðoàn Văn Quang
|
Lạc Long
|
|
Phi Ðoàn 235
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Vĩnh Quốc
Cuối cùng: Trung Tá Huỳnh Hải Hồ
|
Sơn Dương
|
|
Phi Ðoàn 530
|
Ðầu tiên: Thiếu Tá Lê Bá Ðịnh
Thứ nhì: Thiếu Tá Nguyễn Văn Mười
Cuối cùng: Thiếu Tá
Bạch Diễn Sơn
|
Thái Dương
|
|
Biệt Ðội 259B
|
Ðại Úy Trịnh Viết Hảo
|
Nhân Ái
|
|
Không Ðoàn 82 Chiến Thuật
Huy hiệu Không Ðoàn 82 Chiến Thuật
Không Ðoàn 82 Chiến Thuật, đồn trú tại Căn Cứ KQ Phù Cát
(Bình Ðịnh), với Không Ðoàn Trưởng đầu tiên là Trung Tá Nguyễn
Văn Trương, gồm có các phi đoàn sau đây: Phi Ðoàn 241 với trực
thăng CH-47 Chinook, Phi Ðoàn 243 với trực thăng UH-1, Phi Ðoàn 532
với khu trục phản lực cơ A-37, và Biệt Ðội tải thương 259A với
trực thăng UH-1, với các vị chỉ huy, danh hiệu và huy hiệu như
sau:
Ðơn Vị
|
Chỉ Huy Trưởng
|
Danh Hiệu
|
Huy Hiệu
|
Phi Ðoàn 241
|
Trung Tá Ðỗ Văn Hiếu
|
Thiên Bằng
|
|
Phi Ðoàn 243
|
Ðầu tiên: Trung Tá Nguyễn Văn Thân
Cuối cùng: Trung Tá Huỳnh Văn Bông
|
Mãnh Sư
|
|
Phi Ðoàn 532
|
Thiếu Tá Lê Trai
|
Gấu Ðen
|
|
Biệt Ðội 259A
|
Thiếu Tá Nguyễn Hữu Nghề
|
Nhân Ái
|
|
Trong
6 vị tướng Sư Ðoàn Trưởng của 6 sư đoàn KQ VNCH, Chuẩn Tướng
Phạm Ngọc Sang là vị tướng duy nhứt bị địch quân bắt làm tù
binh ngay tại mặt trận ở Phan Rang vào ngày 16-4-1975, như lời
kể lại sau đây của chính ông trong một bài viết về trận Phan
Rang: 48
“…
Lúc 9 giờ tối, dưới sự hướng dẫn của Đại tá Lương, đoàn người bắt đầu
rời Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa thì bị phục kích. Tr/Tướng Nghi,
Ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng
tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Trên đường tôi thấy rất nhiều xe
địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất
thểu, lang thang đi ngược trở về. Tôi bỗng cảm nhận rất có tội đối với
đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành. Ở tại Đồn điền Yersin 2
ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẵng bằng đường bộ. Tại đây, ngày
22.4.1975 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn
Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ. Chúng thả Ông Lewis vào tháng 8.1975,
Tr/Tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992….”
Các Ðơn Vị Hỗ Trợ
Ngoài
các Không Ðoàn Chiến Thuật như đã trình bày trên đây, mỗi Sư
Ðoàn KQ đều có một bộ chỉ huy (gọi là “Sư Ðoàn Bộ”) với đầy
đủ các phòng ban tham mưu (Kế hoạch, An phi, Nhân viên, Tài
Chánh, Chiến tranh Chính trị…) và một số Không Ðoàn phụ thuộc
như sau:
- 1 Không Ðoàn Bảo Trì & Tiếp Liệu, mang phiên hiệu như sau:
-
Sư Ðoàn 1: Không Ðoàn 10 Bảo Trì & Tiếp Liệu, tại Căn Cứ
Ðà Nẵng, với Không Ðoàn Trưởng cuối cùng là Ðại Tá Nguyễn
Bình Trứ (mất tích vào lúc Ðà Nẵng thất thủ)
- Sư Ðoàn 2: Không Ðoàn 20 Bảo Trì & Tiếp Liệu tại Căn Cứ Nha Trang
-
Sư Ðoàn 3: Không Ðoàn 30 Bảo Trì & Tiếp Liệu, tại Căn Cứ
Biên Hòa, với Không Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Hoành (không rõ họ)
- Sư Ðoàn 4: Không Ðoàn 40 Bảo Trì & Tiếp Liệu, tại Căn Cứ Bình Thủy (Cần Thơ)
- Sư Ðoàn 5: Không Ðoàn 50 Bảo Trì & Tiếp Liệu, tại Căn Cứ Tân Sơn Nhứt
-
Sư Ðoàn 6: Không Ðoàn 60 Bảo Trì & Tiếp Liệu, tại Căn Cứ
Cù Hanh (Pleiku), với Không Ðoàn Trưởng là Trung Tá Ðỗ Hữu Sung
- 1 (hoặc 2) Không Ðoàn Yểm Cứ, tùy theo số căn cứ có trong khu vực trách nhiệm của Sư Ðoàn:
- Sư Ðoàn 1: Không Ðoàn Yểm Cứ Ðà Nẵng
-
Sư Ðoàn 2: Không Ðoàn Yểm Cứ Nha Trang, và Không Ðoàn Yểm Cứ
Phan Rang với Không Ðoàn Trưởng cuối cùng là Ðại Tá Trần Ðình
Giao
- Sư Ðoàn 3: Không Ðoàn Yểm Cứ Biên Hòa, với Không Ðoàn Trưởng cuối cùng là Ðại Tá Phùng Văn Chiêu
-
Sư Ðoàn 4: Không Ðoàn Yểm Cứ Bình Thủy (Cần Thơ), với Không
Ðoàn Trưởng là Trung Tá (sau lên Ðại Tá) Bùi Quan Khương
- Sư Ðoàn 5: Không Ðoàn Yểm Cứ Tân Sơn Nhứt, với Không Ðoàn Trưởng cuối cùng là Ðại Tá Nguyễn Trung Sơn
-
Sư Ðoàn 6: Không Ðoàn Yểm Cứ Pleiku, với Không Ðoàn Trưởng cuối
cùng là Trung Tá Phạm Bá Mạo (cùng bị địch bắt làm tù bình
cùng với Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang tại Phan Rang) và Không
Ðoàn Yểm Cứ Phù Cát với Không Ðoàn Trưởng là Ðại Tá Phạm
Hữu Phương.
Mỗi
Không Ðoàn Bảo Trì & Tiếp Liệu sẽ có một số Liên Ðoàn về
Bảo Trì, Tiếp Liệu và Vũ Khí Ðạn Dược. Mỗi Không Ðoàn Yểm
Cứ sẽ có một số Liên Ðoàn Trợ lực và Phòng Thủ.
Sơ
đồ tổ chức của Sư Ðoàn 3 KQ được trình bày sau đây để minh
họa cho cơ cấu tổ chức của một Sư Ðoàn KQ của VNCH:
Sơ đồ tổ chức Sư Ðoàn 3 KQ VNCH
(Nguồn: Quân sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, tr. 165)
Ngoài
các đại đơn vị là 6 Sư Ðoàn KQ vừa trình bày bên trên, Không
Lực VNCH còn có 3 đại đơn vị tương đương cấp sư đoàn nữa là:
- Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận Không Quân, đồn trú tại
Căn Cứ Không Quân Biên Hòa, với Chỉ Huy Trưởng (từ đầu đến
cuối) là Chuẩn Tướng Từ Văn Bê.
- Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, tại Căn Cứ Không Quân
Nha Trang, với Chỉ Huy Trưởng cuối cùng là Chuẩn Tướng Nguyễn
Ngọc Oánh (Chuẩn Tướng Oánh cũng chính là vị Chỉ Huy Trưởng
đầu tiên của Trung Tâm khi người Pháp giao lại cho Không Quân VN
vào ngày 1-7-1955, lúc ông còn mang cấp bậc Ðại Úy).
- Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân, tại Căn Cứ Không Quân Tân Sơn
Nhứt, với Chỉ Huy Trưởng sau cùng là Ðại Tá Vũ Văn Ước.
Thay Lời Kết
Không
Quân là một quân chủng rất quan trọng của QLVNCH và đã tham gia
chiến đấu rất tích cực cũng như đóng góp không ít xương máu
trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho Miền Nam trong suốt 20 năm.
Cùng với các quân chủng khác của QLVNCH, với viện trợ của Hoa
Kỳ, KQ đã phát triển thành một lực lượng hùng hậu, đáng kể
so với các nước trên thế giới. Rất tiếc, vào những năm tháng
cuối của cuộc chiến, vì quân viện từ phía Hoa Kỳ bị cắt giảm
nghiêm trọng, các Sư Ðoàn KQ đã không còn đủ khả năng yểm trợ
tích cực cho các đơn vị của QLVNCH như trước nữa. Việc hy sinh
vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến của một phi hành
đoàn AC-119K của Phi Ðoàn 821 Tinh Long tại Tân Sơn Nhứt
(29-4-1975) và việc bị địch quân bắt làm tù binh (trong khi ông
có thừa phương tiện để thoát thân) của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc
Sang Sư Ðoàn Trưởng Sư Ðoàn 6 KQ tại Phan Rang (16-4-1975) là
những điểm son tiêu biểu cho tinh thần cùng chiến đấu và cùng
hy sinh với các lực lượng bạn của các chiến sĩ KQ VNCH.
Ghi Chú:
- Quân sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa.
Melbourne : Lý Tưởng Úc Châu, 2005. Những thông tin tổng quát về
lịch sử hình thành và phát triển của các ngành của Không
Quân VNCH (quan sát, vận tải, khu trục, và trực thăng), cũng như
những thông tin chi tiêt (ngày tháng thành lập, tên họ và cấp
bậc của các vị chỉ huy trưởng) về các đơn vị (sư đoàn, không
đoàn, phi đoàn, biệt đội) trong tài liệu này đã được sử dụng
rất nhiều trong suốt bài viết này.
- Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. San Jose, Calif.: Hương Quê, 2011. Tr. 391-392.
- Nguyễn Hữu Thiện. Ngành khu trục trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://hoiquanphidung.com/content.php?4149-Ng%C3%A0nh-Khu-Tr%E1%BB%A5c-trong-Kh%C3%B4ng-L%E1%BB%B1c-Vi%E1%BB%87t-Nam-C%E1%BB%99ng-H%C3%B2a. Tài
liệu này ghi là lúc tốt nghiệp, về nước năm 1957, gia nhập Phi
Ðoàn 1 Khu Trục và Trinh Sát (tiền thân của Phi Ðoàn 514), ông
Nguyễn Ðức Khánh chỉ mới mang cấp bậc Chuẩn Úy.
- Trần Mạnh Khôi. Sơ lược về sự thành lập các đơn vị Không Quân, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://hoiquanphidung.com/showthread.php?9293-S%C6%A1-l%C6%B0%E1%BB%A3c-v%E1%BB%81-s%E1%BB%B1-th%C3%A0nh-l%E1%BA%ADp-c%C3%A1c-%C4%91%C6%A1n-v%E1%BB%8B-Kh%C3%B4ng-Qu%C3%A2n
Tài liệu này cung cấp nhiều chi tiết quý hiềm về ngày tháng
thành lập cũng như tên họ và cấp bậc của các vị chỉ huy của
đơn vị của KQVNCH, và sẽ được sử dụng nhiều lần trong bài
viết này.
- Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
sđd, tr. 529. Theo tài liệu này, ông Phạm Long Sửu sinh tháng
11-1925 tại Hà nội, tốt nghiệp khóa huấn luyện hoa tiêu tại
Trung Tâm Huấn Luyện KQ Nha Trang, cấp bậc sau cùng là Ðại Tá.
Sau ngày 30-4-1975, bị tù 13 năm tại VN. Sau khi sang Hoa Kỳ theo
diện HO, ông định cư tại thành phố Glendale, tiểu bang California,
và mất năm 2011, thọ 86 tuồi.
- Nguyễn Hữu Thiện. Ngành khu trục trong Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, tài liệu đã dẫn, cho biết thêm một số chi tiết về ông Phạm Long Sửu như sau: ông đậu thủ khoa
Khóa 1 Hoa Tiêu Quan Sát tại Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang, sau
đó được gửi sang Pháp học lái phi cơ khu trục và phản lực tại
Salon-de-Provence, và Mecknès, Maroc (Bắc Phi); khi đang mang cấp
bậc Ðại Úy, ông trở thành Phi Ðoàn Trường đầu tiên của Phi Ðoàn
2 Khu Trục tại Nha Trang (năm 1964 chuyển ra Ðà Nẵng; tiền thân
của Phi Ðoàn 516 Phi Hổ). Tài liệu này sẽ được sử dụng nhiều
trong bài viết này khi đề cập đến các phi đoàn khu trục.
- Nguyễn Hữu Thiện, “Phiên hiệu của các Phi Ðoàn Trong KQVN”, trong Quân sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, sđd, tr. 352-353
- Võ Ý. Ngành quan sát không lực VNCH, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://hoiquanphidung.com/showthread.php?9282-Ng%C3%A0nh-Quan-S%C3%A1t-Kh%C3%B4ng-L%E1%BB%B1c-VNCH&s=cfaed16e0f4ddef9f7e5c62fb3a85ee2
Tài liệu này, mà tác giả đã từng là Phi Ðoàn Trường Phi
Ðoàn Quan Sát 118 Bắc Ðẩu, cung cấp khá đầy đủ thông tin về
ngành quan sát của KQ VNCH dựa vào một số tài liệu tham khảo
cũng như đóng góp của các vị niên trưởng trong KQ. Tài liệu
này sẽ được sử dụng nhiều trong bài viết này khi đề cập đến
các phi đoàn quan sát.
- Cessna O-1 Bird Dog, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Cessna_O-1_Bird_Dog
- U-17 A/B Skywagon, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.redstar.gr/Foto_red/Eng/HAF/HAF_U17.html
- Phạm Văn Cần. Phi Ðoàn 427 – C-7A- Caribou: không vận chiến thuật, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://hoiquanphidung.com/showthread.php?9466-Phi-%C4%91o%C3%A0n-427-c-7a-caribou
- De Havilland Canada DHC-4 / C-7 Caribou, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://nhungdoicanh.blogspot.ca/2008/08/de-havilland-canada-dhc-4-c-7-caribou.html
- Ðỗ Văn Hiếu. Ngành trực thăng trong Không Lực Việt N am Cộng Hòa, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://hoiquanphidung.com/showthread.php?9287-Ng%C3%A0nh-Tr%E1%BB%B1c-Th%C4%83ng-Trong-Kh%C3%B4ng-L%E1%BB%B1c-Vi%E1%BB%87t-Nam-C%E1%BB%99ng-H%C3%B2a Tài liệu này sẽ được sử dụng nhiều trong bài viết này khi đề cập đến các phi đoàn trực thăng.
- Sikorsky H-34, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Sikorsky_H-34#Specifications_.28H-34_Choctaw.29
- Boeing CH-47 Chinook, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://vietnamwar.wikia.com/wiki/Boeing_CH-47_Chinook
- Frankum, Ronald B. Historical dictionary of the War in Vietnam. Lanham, Md.: ScarecrowPress, 2011. Tr. 196-200.
- Nguyễn Kỳ Phong. Từ điển Chiến Tranh Việt Nam, 1954-1975. Garden Grove, Calif.: Tự Lực, 2009. Tr. 421-423
- Bell UH-1 Iroquois, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Bell_UH-1_Iroquois
- Cessna A-37 Dragonfly, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Cessna_A-37_Dragonfly
- Northrop F-5A Freedom Fighter, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.wmof.com/f5a.htm
- Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd,tr. 403.
- Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd, tr. 179-180.
- Douglas AC-47 Spooky, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Douglas_AC-47_Spooky#Specifications_.28AC-47.29
- Bùi Tá Khánh. “Chuyến bay tử thần vào Ðồi 31 Hạ Lào”, trong Quân sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, sđd, tr. 281-284.
- Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd,tr. 450.
- Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd,tr. 363-365.
- Douglas A-1 Skyraider, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Douglas_A-1_Skyraider#Specifications_.28A-1H_Skyraider.29
- Nguyễn Văn Ức. Phi Ðoàn 221 trực thăng, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://hoiquanphidung.com/showthread.php?18598-Phi-%C4%90o%C3%A0n-221-Tr%E1%BB%B1c-Th%C4%83ng
- Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd,tr. 247-248.
- Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd,tr. 428-429.
- Trần Phước Hội. Thành lập Phi Ðoàn 217: giai đoạn H-34, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://hoiquanphidung.com/showthread.php?9448-Th%C3%A0nh-l%E1%BA%ADp-Phi-%C4%90o%C3%A0n-217
- Cố Trung Tá Phạm Văn Trung PÐT PÐ 249, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://hoiquanphidung.com/showthread.php?2061
- Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd,tr. 449.
- Thành-Giang. Hoa không gian 1: những chị Hằng của Phi Ðoàn 314, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://hoiquanphidung.com/showthread.php?21896-Hoa-Kh%C3%B4ng-Gian-1-Nh%E1%BB%AFng-ch%E1%BB%8B-H%E1%BA%B1ng-c%E1%BB%A7a-Phi-%C4%90o%C3%A0n-314
- Thành-Giang. Phi Ðoàn 431 Phượng Long, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://lhccshtd.org/LHCCSHTD_SH/kq/thanhgiang/2015/pd431/LSCCSHTD_SH_kq_thanhgiang_2015_pd431_hashPD431PhuongLong_2015AUG09.htm
- Lâm Vĩnh Thế. Tình báo trong Chiến Tranh Việt Nam, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/i-j-k-l-m/lam-vinh-the/tinh-bao-trong-chien-tranh-viet-nam
- Phi Ðoàn 716 và Phi Ðoàn 718 Thiên Long, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://phong7bttm.blogspot.ca/2016/02/phi-oan-thien-long-718.html
- Douglas EC-47D Dakota, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.wings-aviation.ch/11-RTAF/2-Aircraft/Douglas-EC-47/Dakota.htm
- Quân sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, sđd, tr. 148.
- Fairchild C-119 Flying Boxcar, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Fairchild_C-119_Flying_Boxcar#Specifications_.28C-119C.29
- Fairchild C-123 Provider, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Fairchild_C-123_Provider
- Lockheed C-130 Hercules, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://en.wikipedia.org/wiki/Lockheed_C-130_Hercules#Specifications_.28C-130H.29
- Thương tiếc phi hành đoàn AC-119 Tinh Long 7 KQVNCH, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://hoiquanphidung.com/showthread.php?3136-Th%C6%B0%C6%A1ng-Ti%E1%BA%BFc-Phi-H%C3%A0nh-%C4%90o%C3%A0n-AC-119-T%E1%BB%89nh-Long-7-KQVNCH
- Phi Ðoàn Tinh Long 821: những hy sinh dũng cảm, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://chauxuannguyen.org/2013/03/12/phi-doan-tinh-long-821-nhung-hy-sinh-dung-cam/
- AC-119K Stinger, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.ac-119gunships.com/the119s/ac119k/gunshipk.htm
- Trần Lý. Những phi vụ hành quân cuối cùng của Không Quân VNCH trên không phận Sàigòn, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.luanhoan.net/Bai%20Moi%20Trong%20Ngay/html/bm%2015-6-24.htm
- Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sđd,tr. 425-427.
- Phạm Ngọc Sang. “Trận Phan Rang: hồi ức của Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang,” trong Quân sử Không Quân Viêt Nam Cộng Hòa, sđd,
tr. 297. Những người được nói đến trong phần trích dẫn này
là: 1) Ðại Tá Lương: là Ðại Tá Nguyễn Thu Lương, Lữ Ðoàn
Trưởng Lữ Ðoàn 2 Nhảy Dù; 2) Tr/Tướng Nghi: là Trung Tướng
Nguyễn Vĩnh Nghi, nguyên Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, tại thời điểm này
là Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn III; Ông Lewis: là 1 người
Mỹ, chuyên viên về truyền tin do Tòa Ðại sứ Mỹ ở Sài Gòn cử
ra để liên lạc.
Phụ Ðính
Danh Sách Các Phi Ðoàn với Phiên Hiệu và Danh Hiệu
- 1. Các Phi Ðoàn Quan Sát
- Phi Ðoàn 110 Thiên Phong
- Phi Ðoàn 112 Thanh Xà
- Phi Ðoàn 114 Sao Mai
- Phi Ðoàn 116 Sơn Ca
- Phi Ðoàn 118 Bắc Ðẩu
- Phi Ðoàn 120 Bạch Yến
- Phi Ðoàn 122 Họa Mi
- Phi Ðoàn 124 Thanh Ðiểu
- 2. Các Phi Ðoàn Trực Thăng
- Phi Ðoàn 211 Thần Chùy
- Phi Ðoàn 213 Song Chùy
- Phi Ðoàn 215 Thần Tượng
- Phi Ðoàn 217 Thần Ðiểu
- Phi Ðoàn 219 Long Mã
- Phi Ðoàn 221 Lôi Vũ
- Phi Ðoàn 223 Lôi Ðiểu
- Phi Ðoàn 225 Ác Ðiểu
- Phi Ðoàn 227 Hải Âu
- Phi Ðoàn 229 Lạc Long
- Phi Ðoàn 231 Lôi Vân
- Phi Ðoàn 233 Thiên Ưng
- Phi Ðoàn 235 Sơn Dương
- Phi Ðoàn 237 Lôi Thanh
- Phi Ðoàn 239 Hoàng Ưng
- Phi Ðoàn 241 Thiên BẰng
- Phi Ðoàn 243 Mãnh Sư
- Phi Ðoàn 245 Lôi Bằng
- Phi Ðoàn 247 Lôi Phong
- Phi Ðoàn 249 Mãnh Long
- Phi Ðoàn 251 Lôi Thiên
- Phi Ðoàn 253 Sói Thần
- Phi Ðoàn 255 Xà Vương
- Phi Ðoàn 257 Cứu Tinh
- Phi Ðoàn 259 Nhân Ái
- 3. Các Phi Ðoàn Ðặc Nhiệm
- Phi Ðoàn 312
- Phi Ðoàn 314 Thần Tiễn
- 4. Các Phi Ðoàn Vận Tải
- Phi Ðoàn 413 Xích Long
- Phi Ðoàn 421 (giải thể đầu năm 1973)
- Phi Ðoàn 423 (giải thể đầu năm 1973)
- Phi Ðoàn 425 Kim Long (giải thể đầu năm 1973)
- Phi Ðoàn 427 Thần Long
- Phi Ðoàn 429 Sơn Long
- Phi Ðoàn 431 Phương Long
- Phi Ðoàn 435
- Phi Ðoàn 437
- 5. Các Phi Ðoàn Khu Trục
- Phi Ðoàn 514 Phượng Hoàng
- Phi Ðoàn 516 Phi Hổ
- Phi Ðoàn 518 Phi Long
- Phi Ðoàn 520 Thần Báo
- Phi Ðoàn 522 Thần Ưng
- Phi Ðoàn 524 Thiên Lôi
- Phi Ðoàn 526 Quỷ Vương
- Phi Ðoàn 528 Hổ Cáp
- Phi Ðoàn 530 Thái Dương
- Phi Ðoàn 532 Gấu Ðen
- Phi Ðoàn 534 Kim Ngưu
- Phi Ðoàn 536 Thiên Ưng
- Phi Ðoàn 538 Hồng Tiễn
- Phi Ðoàn 540 Hắc Ưng
- Phi Ðoàn 542 Kim Ưng
- Phi Ðoàn 544 Hải Ưng
- Phi Ðoàn 546 Thiên Sứ
- Phi Ðoàn 548 Ó Ðen
- Phi Ðoàn 550 Nhện Ðen
- 6. Các Phi Ðoàn Oanh Tạc
- Biệt Ðội 615 (giải thể tháng 4-1966)
- 7. Các Phi Ðoàn Không Thám Ðiện Tử
- Phi Ðoàn 716 Hoàng Long
- Phi Ðoàn 718 Thiên Long
- Phi Ðoàn 720 Hải Long
- 8. Các Phi Ðoàn Yểm Trợ Hỏa Lực (hay Vận Tải Võ Trang, Gunship, hay Hỏa Long hay Cường Kích)
- Phi Ðoàn 817 Hỏa Long
- Phi Ðoàn 819 Hắc Long
- Phi Ðoàn 821 Tinh Long
- 9. Các Phi Ðoàn Huấn Luyện
- Phi Ðoàn 918 Phi Yến (phi cơ quan sát)
- Phi Ðoàn 920 (phi cơ phản lực T-37)