Từ cuối năm 72 là đã có nhiều sinh
viên sĩ quan phi hành của khóa 72A được gửi đi học bay từ những
tài khóa phản lực ở Mỹ, trực thăng tại Mỹ cũng như tại các phi
đoàn tác chiến ở Việt Nam, và L-19 ở Nha Trang. Các khóa đàn em từ
72B tới 72F đã lần lượt kéo ra, và nhiều anh em 72A giờ đây phải
thay các niên trưởng lo việc chăm sóc và điều hành trại Ngân Hà.
Sau khi tốt nghiệp, dù là Phi Hành hay Không Phi Hành, các anh em 72A đã về phục vụ tại các sư đoàn tác chiến sau:
• SĐ I KQ Đà Nẵng, dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Khánh.
• SĐ II KQ dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Lượng, với bản doanh ở Nha Trang và căn cứ ?????? Chiến Thuật Phan Rang.
• SĐ III KQ Biên Hòa, dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Huỳnh Bá Tính.
• SĐ IV KQ dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Nguyễn Hữu Tần, với bộ chỉ huy đặt ở Bình Thủy và căn cứ ?????? Chiến Thuật Trà Nóc.
• SĐ VI KQ dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phạm Ngọc Sang, với bản doanh ở Pleiku và thêm căn cứ 60 Chiến Thuật Không Quân Phù Cát.
Riêng Sư Đoàn V Vận Tải ở Tân Sơn Nhất, dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phan Phụng Tiên, thì không có anh em 72A nào về.
Sau khi ra phi đoàn thì cuộc sống của mỗi SVSQ phi hành gắn liền với một con số và cái tên của phi đoàn mình phục vụ. Các phi đoàn Quan Sát thì bắt đầu bằng số 1, tỷ dụ như 112, 124. Các phi đoàn Trực Thăng thì bắt đầu bằng số 2. Các phi đoàn Khu Trục thì bắt đầu bằng số 5. Những khóa học bay được kể lại sau đây theo thứ tự đó.
Vào đầu năm 73 gần tết con trâu thì khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát bắt đầu khai giảng ở Trường Phi Hành thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Những huấn luyện viên là những thiếu úy mới ra trường từ Mỹ về. Các khóa sinh hơi vất vả vì phải học bay vừa bằng tiếng Việt vừa bằng tiếng Mỹ. Triệt nâng thì là stall, cận tiến là final approach, chong chóng là propeller, và cánh cản là flap. Khi cất cánh là lúc bận rộn nhất, các khóa sinh lại càng thêm lúng túng khi miệng đang lẩm bẩm “hòa khí già, tay ga tống hết” trong khi huấn luyện viên ngồi cạnh hò hét những “mixture: rich, throttle: full”. Trong những buổi briefing, thằng học trò ngồi xanh mặt nghe đàn anh mắng mỏ mà không khỏi chạnh lòng nghĩ tới những thành phần bourgeois gentilhomme mới lên của thời đại, những bourgeois gentilhomme hút Salem, Winston, Pall Mall thay vì hút Con Mèo hay Ba Số 5 như thời trước. Các đàn anh đã không có thì giờ rảnh vào phạn xá xem để biết rằng các tiêu chuẩn dinh dưỡng của các đàn em rất là thấp, khó mà vẽ được cái lazy eight cho được tròn trịa như tiêu chuẩn mà khỏi run tay hoa mắt ù tai. Không nên la mắng đàn em quá, bởi đất nước đang chờ.
Khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát là khóa bay L-19 đầu tiên có sự hiện diện của 72A. Khóa này có 27 khóa sinh gồm có 23 anh em 72A, hai sĩ quan và hai SVSQ khóa 72E. Những SVSQ của 72A gồm có:
Sau khi tốt nghiệp, dù là Phi Hành hay Không Phi Hành, các anh em 72A đã về phục vụ tại các sư đoàn tác chiến sau:
• SĐ I KQ Đà Nẵng, dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Khánh.
• SĐ II KQ dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Lượng, với bản doanh ở Nha Trang và căn cứ ?????? Chiến Thuật Phan Rang.
• SĐ III KQ Biên Hòa, dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Huỳnh Bá Tính.
• SĐ IV KQ dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Nguyễn Hữu Tần, với bộ chỉ huy đặt ở Bình Thủy và căn cứ ?????? Chiến Thuật Trà Nóc.
• SĐ VI KQ dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phạm Ngọc Sang, với bản doanh ở Pleiku và thêm căn cứ 60 Chiến Thuật Không Quân Phù Cát.
Riêng Sư Đoàn V Vận Tải ở Tân Sơn Nhất, dưới quyền Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phan Phụng Tiên, thì không có anh em 72A nào về.
Sau khi ra phi đoàn thì cuộc sống của mỗi SVSQ phi hành gắn liền với một con số và cái tên của phi đoàn mình phục vụ. Các phi đoàn Quan Sát thì bắt đầu bằng số 1, tỷ dụ như 112, 124. Các phi đoàn Trực Thăng thì bắt đầu bằng số 2. Các phi đoàn Khu Trục thì bắt đầu bằng số 5. Những khóa học bay được kể lại sau đây theo thứ tự đó.
Vào đầu năm 73 gần tết con trâu thì khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát bắt đầu khai giảng ở Trường Phi Hành thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Những huấn luyện viên là những thiếu úy mới ra trường từ Mỹ về. Các khóa sinh hơi vất vả vì phải học bay vừa bằng tiếng Việt vừa bằng tiếng Mỹ. Triệt nâng thì là stall, cận tiến là final approach, chong chóng là propeller, và cánh cản là flap. Khi cất cánh là lúc bận rộn nhất, các khóa sinh lại càng thêm lúng túng khi miệng đang lẩm bẩm “hòa khí già, tay ga tống hết” trong khi huấn luyện viên ngồi cạnh hò hét những “mixture: rich, throttle: full”. Trong những buổi briefing, thằng học trò ngồi xanh mặt nghe đàn anh mắng mỏ mà không khỏi chạnh lòng nghĩ tới những thành phần bourgeois gentilhomme mới lên của thời đại, những bourgeois gentilhomme hút Salem, Winston, Pall Mall thay vì hút Con Mèo hay Ba Số 5 như thời trước. Các đàn anh đã không có thì giờ rảnh vào phạn xá xem để biết rằng các tiêu chuẩn dinh dưỡng của các đàn em rất là thấp, khó mà vẽ được cái lazy eight cho được tròn trịa như tiêu chuẩn mà khỏi run tay hoa mắt ù tai. Không nên la mắng đàn em quá, bởi đất nước đang chờ.
Khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát là khóa bay L-19 đầu tiên có sự hiện diện của 72A. Khóa này có 27 khóa sinh gồm có 23 anh em 72A, hai sĩ quan và hai SVSQ khóa 72E. Những SVSQ của 72A gồm có:
1. Lê Minh Bảo, PĐ 110 Đà Nẵng
2. Trần Quang Diệu, PĐ 110 Đà Nẵng
3. Nguyễn Văn Đích, PĐ 124 Biên Hòa
4. Tạ Viết Đỉnh, PĐ 110 Đà Nẵng
5. Đặng Văn Hai, PĐ 120 Đà Nẵng
6. Kiều Công Ngọc Khuê , PĐ 112 Thanh Xà, Biên Hòa
7. Nguyễn Tuấn Kiệt, PĐ 110 Đà Nẵng
8. Nguyễn Văn Năm, rớt bay bị loại ra bộ binh
9. Đinh Trọng Nghĩa, PĐ 124 Biên Hòa
10. Đường Lập Nghĩa, PĐ 110 Đà Nẵng
11. Nguyễn Thanh Quan, PĐ 110 Đà Nẵng
12. Đào Thanh Sơn, PĐ 120 Đà Nẵng
13. Nguyễn Thanh Tâm, PĐ 120 Đà Nẵng
14. Võ Văn Tấn, PĐ 124 Biên Hòa
15. Vũ Văn Tân, PĐ 116 Cần Thơ
16. Trần Chung Thanh, PĐ 112 Thanh Xà, Biên Hòa
17. Võ Văn Thừa, PĐ 116 Cần Thơ
18. Mai Ngọc Trai, PĐ 110 Đà Nẵng
19. Phạm Quang Trung, PĐ 124 Biên Hòa
20. Nguyễn Thanh Tùng, PĐ 114 Nha Trang
21. Nguyễn Long Tựu, PĐ 112 Thanh Xà, Biên Hòa
22. Hứa Tỷ, PĐ 110 Đà Nẵng
23. Trần Văn Ứng, PĐ 110 Đà Nẵng
Trong khóa 42 HTQS, Trai Đầu Bò còn nhớ Tạ Viết Đỉnh là một anh chàng hơi gầy gò và có tật ưa nói cà lăm không kịp thở mỗi khi chàng đang hừng chí. Một hôm khi dẫn đào nhí ra Hòn Chồng ngoạn cảnh, trong một lúc cao hứng chàng đã thao thao kể cho nàng nghe rằng trong khi đang bay mà buồn ngủ là chàng chui vào mây gác cánh lên đó mà ngủ, cho đến lúc mây tan máy bay rớt xuống thì chàng mới giật mình thức dậy mở máy để bay về đáp. Không may cho chàng là có mấy huấn luyện viên của Trường Phi Hành tình cờ ở gần đó nghe hết mà chàng không biết. Vì câu chuyện này mà Đỉnh bị kết từ hôm đó, ngày nào cũng bị đàn anh huấn luyện viên hỏi rằng “hôm nay có tính gác cánh lên mây mà ngủ hay không?”
Trong thời gian học bay của khoá 42 HTQS thì câu lạc bộ của Đại Tá Thịnh khai trương. Mỗi buổi trưa các khóa sinh mặc đồ bay lấy khay sắp hàng chờ mấy cô đứng sau quầy múc cơm vô khay cho. Cơm ăn đủ no nhưng thịt thà rau cỏ thì ít, cho nên thêm được chút nào hay chút nấy. Trai Đầu Bò vì được cô Tuyết có cảm tình nên lần nào cũng được múc cho một cục thịt kho bự nhất. Dĩ nhiên thì chuyện chả đi tới đâu vì Trai chỉ lợi dụng tình thế đùa giỡn cho vui vậy thôi. Ít lâu sau thì cô Tuyết cũng hiểu ra như thế, và từ đó là cục thịt mà cô múc cho Trai bao giờ cũng bé nhất. Bù lại thì Mai lại được chị Trinh gốc người Hoa là chủ cái gian hàng tạp hóa cạnh quán ông Tá dành cho những cảm tình đặc biệt nên nó lúc nào cũng có xà bông Camay để tắm. Nhiều bữa thấy hai chị em Trinh-Trai tâm tình thủ thỉ mà anh em đâm ra ghen tị, vì qua sự thân mật gắn bó đó người ta đủ biết rằng những nhu yếu phẩm thì Mai không thiếu. Gì chứ những món đồ bày sau tủ kính của chị Trinh như xí mụi, thuốc lá, mì gói, cà phê, gương lược, bánh kẹo, v.v..., Mai muốn gì mà chị chẳng cho!
Có lúc khóa 42 HTQS được cho qua trại sĩ quan khóa sinh Hoàng Yến
ở. Gian trại làm bằng sắt từ trần cho tới sàn, và cứ hễ từ trong
bước ra hay ở ngoài bước vôâ là bị điện giựt nhẩy nhổm. Trại đó
rộng rãi thoải mái nhưng vắng vẻ xa đoàn SVSQ nên anh em hơi buồn
cho rằng mình bị đì. Bởi ở xa Ngân Hà nên buổi tối nhiều thằng ưa
dù ra phố chơi. Có một buổi tối Thiếu Tá Bé gọi những thằng còn
lại lên trình diện. Tôi vì cao nhất làm trưởng toán dẫn anh em vô
văn phòng trình diện xong thì Thiếu Tá Bé hỏi: “Tôi cho các anh
sang bên đó ở là ưu đãi lắm rồi mà tại sao các anh còn chống đối,
các anh hãy trả lời đi!” Tôi đứng nghiêm hô to: “Trình Thiếu Tá,
chuyện đó chúng tôi không được rõ!” Thế là Thiếu Tá Bé đập bàn
đuổi cả đám về, trừ tôi thì cạo đầu nhốt một tháng. Cái conex của
Ngân Hà đã nghiễm nhiên biến thành tư gia của tôi, ban ngày trần
xì một chiếc quần xà loỏng trong đó thỉnh thoảng cậy cửa đưa nón
sắt nhờ đàn em nào tình cờ đi ngang múc dùm ít nước xối cho đỡ
nóng, ban đêm thì lạnh dã man, nhiều khi muốn tè nhưng teo đâu
mất. Một tháng sau khi vừa được thả ra một hôm tôi được cắt đi với
một ông sĩ quan huấn luyện kiểng không có dạy khóa sinh nào mà chỉ
thỉnh thoảng bay kiếm giờ. Khi lên tàu ông ra lệnh, “Anh buông tay
để tôi bay”, và thế là tôi buông tay cho ông bay là là dọc đường
về Cam Ranh chơi, chẳng may vì ông ngồi sau không thấy đường chui
cha nó vào một cây đa suýt chết cả hai. Sau khi về đáp thì ông ta
đi méc Trung Tá Duy Chỉ Huy Trưởng Trường Phi Hành, và tôi lại vô
phòng giam gần phía ngoài bệnh xá nằm thêm một tháng nữa . Cứ thế
mà nằm cho gần đến lúc mãn khóa ra phi đoàn. May mà có một hôm cô
tôi ở Sàigòn ra chơi nhà ông anh họ xa bắn cà nông không tới đang
là một phi đoàn trưởng khu trục. Bà nhờ ông gọi Thiếu Tá Bé xin
cho tôi ra phép, và từ đó về sau thì mới hết bị nhốt.
Trong những đêm hiếm hoi được thả ra thì tôi nhẩy tường ra phố
thăm cô Lan bán quán bà Tá. Lan khi đó ở với bà chị nuôi có ba con
mà không chồng trong một đường hẻm cách cổng trước không xa. Đêm
đêm nằm nghe gió biển thổi vi vu, tôi lải nhải khuyên Lan hãy về
Huế trở lại ở với mẹ già để còn lo đi lấy chồng làm lại cuộc đời,
và bữa nào khi ngừng nói tôi cũng đều nhận ra là Lan đã ngủ. Cùng
khóa 42 HTQS của tôi có Đào Thanh Sơn ngày nào cũng chạy Honda rề
rề theo Lan tới nhà để thả dê, nhưng với cái tên Đào Thùng Nước
Lèo, hắn coi như là vô hy vọng.
Chiều nào tôi về trong sam 42 HTQS chờ giờ dù ra phố thì cũng một
hoạt cảnh cũ tái diễn. Nguyễn Long Tựu cứ ăn cơm xong về là nhẩy
loi choi hai tay khuỳnh ra như gà mắc đẻ, và sau khi la “cục tác,
cục tác” vài tiếng là lại ư ử bằng giọng mấy người đang lên đồng:
“Con cò xanh nhẩy quanh đầu sói, chờ nước đục rỉa lông rỉa tóc.”
Cứ chấm dứt chữ “tóc” là Tựu phải vùng chạy ra sân cho mau, vì
Trung Úy Thân đầu hói cùng khóa bay ở cuối phòng cầm cây giăng
mùng chạy tới đập. Ngày nào cũng màn đó mà Trung Úy Thân chưa bao
giờ đập Trúng Nguyễn Long Tựu cả. Phần tôi và ông Thiếu Úy Hải thì
một màn khác. Bởi tôi cứ nằm tù conex hoài, ông lấy vần điệu tên
tôi ra để gọi tôi là Tù Chung Thân, và tôi thì dịch tên ông thành
Dê Địt Bể.
Ở trại Hoàng Yến lúc đó ngoài khóa 42 HTQS, và Khóa 17 Bảo Trì Phi
Cơ ra thì hầu như chẳng có ai, và vì thế tụi tôi rất cẩu thả trong
vấn đề ăn mặc. Có những buổi trưa cuối tuần nóng nực, tụi tôi
thằng nào cũng chỉ trần xì một chiếc xiệp . Lâu lâu cứ hễ cô Tuyết
ở quán Đại Tá Thịnh tới tìm Trai Đầu Bò mà nó đi vắng thì Nguyễn
Văn Đích và Nguyễn Thanh Quan cùng hai ba chàng nữa chạy ra hỏi
thăm tíu tít và thân ái mời “em vô nhà chơi để tụi anh đi kiếm
nó...” trong khi mặt cô nàng đỏ bừng lên và cứ cắm cúi nhìn xuống
đất như đang tìm bạïc cắc rơi. Kiệt Lặc thì ưa đạo đức giả, những
lúc đó cứ hay lải nhải phê bình về tư cách những thằng đang săn
sóc kỹ cô Tuyết với Lê Minh Bảo. Tội nghiệp thằng Bảo hiền lành
nói gì thì hắn cũng ừ. Hình như nó là người bạn duy nhất mà Kiệt
có.
Khóa 43 Hoa Tiêu Quan Sát hình như không có anh em 72A nào.
Khóa 44 HTQS có những anh em 72A sau:
1. Diệp Vĩnh Trí (Bộp, tức là nhẩy Bebop giỏi)
2. Huỳnh Văn Chín (Đen)
3. Nguyễn Văn Hiếu (Gà Tây)
4. Phạm Văn Hiếu
5. Lưu Khải Minh (Chè)
6. Đỗ Trọng Nhâm
7. Nguyễn Phước
8. Trịnh Vĩnh Thụy
9. Huỳnh Văn Trọng (hay là Trần Bình Trọng???? Khóa 72A có hai
Trọng là Vũ Đức Trọng học khóa 2 HTTT và một Trọng nữa. Trọng kia
họ là gì?????)
Sau đây là những giai thoại của Khóa 44 Hoa Tiêu Quan Sát ghi lại
theo lời kể của Đỗ Trọng Nhâm.
Trong thời gian Khóa 44 HTQS đang học bay T-41, một buổi sáng
trong khoảng tháng 9/74, bốn bạn 72A trong khóa đã vì ham vui mà
bị nhốt. Số là trên con đường nối từ cổng Long Vân chạy dài tuốt
qua Phi Dũng, giữa khoảng trại Ngân Hà và trường Phi Hành, trước
khi tới chỗ dạy bay phi cụ cạnh trường Phi Hành, có một quán trong
đó chỉ có vỏn vẹn hai cái bàn bi da đã cũ xì. Dù là đã vô trường
bay rồi nhưng tật ham cá độ của vài anh em 72A vẫn chưa chịu bỏ.
Một buổi sáng thứ bẩy các khóa sinh 44 HTQS phải lên trường Phi
Hành chào cờ. Trên đường đi, bốn chàng gồm có Chín Đen, Minh Chè,
Nhâm, và Thụy đã rủ nhau vào đánh bi da độ với giải thắng là một
ly cà phê và một gói xôi. Bởi ham tranh giải, bốn chàng đã trễ giờ
chào cờ, và bị trường Phi Hành cạo đầu và nhốt vô trại giam quân
cảnh gần phía phòng lương và câu lạc bộ của Đại Tá Thịnh.
Trong cái trại giam của quân cảnh này có hai phòng giam, một phòng
có một chiếc giường sắt hai tầng và một phòng có lưới không có
giường ghế chi cả. Bốn chàng có máu đỏ đen nhà ta đã bị nhốt vô
cái phòng thứ hai hết sáu ngày trời. Xui làm sao lúc đó Nha Trang
lại đang bị bão lớn mà căn phòng giam lại bị dột ướt mẹp chỉ ngồi
được co ro ở dưới sàn xi măng. Đã vậy mà không có gì ăn, mấy chàng
phải nhằm lúc được cho đi ra làm tạp dịch dọn dẹp cây cối bị bão
rơi xuống để nhờ anh em đi mua thức ăn dùm.
Trong thời gian sáu ngày mưa bão mà bốn chàng bị nhốt, Hiếu Gà Tây
ở nhà lấy hết mấy cái giường của bốn chàng ra chắn mưa trên mấy
cửa sổ của barrack. Ngoài mớ giường ra chưa đủ, Hiếu nhà ta còn
lấy cả va ly của Minh Chè ra xài đỡ vào việc chống bão luôn. Khi
về thấy vậy, Minh Chè nộ khí xung thiên bèn đập Hiếu Gà Tây một
mách tơi bời, dù chàng này đã hết lời giải thích và năn nỉ. Sau đó
Hiếu đã chạy đi đâu kiếm được một khẩu M-16 mang về lên đạn chĩa
thẳng vô Minh Chè làm cho chàng này vội nhẩy núp sau cái tủ gỗ nhỏ
cạnh đầu giường. May mà nhờ có một thằng nào đó chụp được súng chứ
không thì chắc Minh Chè đã sớm thăng thiên.
Sau khi được thả ra, tật nghịch ngợm của bốn chàng cao thủ bi da
vẫn chưa chịu bỏ. Một tối kia bốn thằng rủ thêm được Dân Già ra bờ
biển trên đường Độc Lập nhậu, đến khi về thì trời đã khuya. Lúc đi
qua một quán cóc kia, thấy mấy anh phu xích lô đạp đang chúi mũi
vào một cái vô tuyến truyền hình coi một tuồng cải lương mùi mẫn,
Thụy nhà ta đã đỡ nhẹ một chiếc đưa cho Dân Già đạp. Anh phu xe
bất đắc dĩ này đã chở được hai hành khách là Chín Đen và Thụy về
tới cổng Long Vân thì vứt xe ở đó và ba chàng điềm nhiên dẫn nhau
vào cổng.
Lần đó không phải là lần duy nhất mà Dân Già nghe theo lời xúi làm
bậy của Trịnh Vĩnh Thụy. Trong một lần về Tân Sơn Nhất chờ ra khóa
bay trước đó, Thụy đã dụ dỗ Dân làm bậy rồi. Một hôm khi Dân đang
ngồi ngáp gió vặt thì Thụy ở đâu lù lù lái chiếc Toyota của ông
già vô. Thấy Dân, Thụy ra vẻ mừng lắm và xúi Dân đi gỡ mấy con
chuột đèn néon cho hắn. Dân Già nghe xong nổi máu quân tử Tàu lên
bèn lên giọng mắng mỏ rằng "Tao không quen ăn cắp!" Nhờ mau mắn
miệng mồm, Trịnh Vĩnh Thụy đã phát ngôn vài lời đường mật rằng
"Tao nhờ mày gỡ đây là gỡ cho tao, chứ có phải đâu là tao xúi mày
gỡ cho mày..." Dân Già nghe nói bùi tai bèn trèo lên gỡ sạch hết
vài trăm cái đưa cho Thụy. Thụy xách mớ con chuột đi đâu một lát
trở lại với bia và mồi lủ khủ. Thế là anh em được một bữa nhậu xả
ga mà không tốn công đi vay mượn hay ký sổ đồng nào.
Trở lại chuyện học bay của Khóa 44 Hoa Tiêu Quan Sát. Dù gọi chung
là Khóa 44 HTQS nhưng thật ra một nửa số khóa sinh học L-19 và một
nửa học T-37. Số 30 khóa sinh sau khi học xong T-41 đã được chia
làm hai, 15 người ở lại trường Phi Hành Nha Trang học bay L-19, và
15 người kia đi Phan Rang theo Khóa 3 Quốc Nội T-37. Trong số chín
anh em 72A đã kể ở trên, có năm người đi Phan Rang là Huỳnh Văn
Chín, Phạm Văn Hiếu, Lưu Khải Minh, Đỗ Trọng Nhâm, và Trịnh Vĩnh
Thụy. Trừ Hiếu ra thì bốn ông thần phá làng phá xóm ở Nha Trang
trước kia tiếp tục ở chung với nhau.
Những anh em học bay L-19 của Khóa 44 HTQS đã ra trường và về phi
đoàn trước tháng 4/75. Riêng những anh em học T-37 thì chưa kịp ra
phi đoàn, dù chương trình học thì coi như đã hoàn tất. Một lý do
là vì các anh em đó phải học Giai Đoạn II Quân Sự tới hai lần. Lần
học thứ nhất là khi còn ở Nha Trang, nhưng học không đủ sáu tuần
nên sau đó phải về học thêm.
Bây giờ bước sang các khóa bay đào tạo hoa tiêu cho các phi đoàn
có mang số 2 ở đầu, tức là các phi đoàn trực thăng. Theo lời kể
của Phan Văn Út, Khối Huấn Luyện của Bộ Tư Lệnh Không Quân đã đào
tạo được 6 khóa trực thăng quốc nội chia làm hai đợt. Đợt thứ nhất
gồm Khóa 1 ở Sư Đoàn III Biên Hòa, Khóa 2 ở Sư Đoàn IV Cần Thơ, và
Khóa 3 ở Sư Đoàn I Đà Nẵng. Đợt thứ nhì gồm Khóa 4 ở Sư Đoàn III
Biên Hòa, Khóa 5 ở Sư Đoàn IV Cần Thơ, và Khóa 6 ở Sư Đoàn I Đà
Nẵng.
Cũng theo lời bạn Út, khi mỗi khóa bay trực thăng hoàn tất thì 60%
khóa sinh tốt nghiệp sẽ ở lại sư đoàn huấn luyện họ, 20% sẽ ra Sư
Đoàn II Nha Trang, và 20% sẽ về Sư Đoàn VI Pleiku. Bởi khóa sinh
học ở ba sư đoàn, với sự phân chia như thế thì mỗi sư đoàn đều
nhận được số hoa tiêu trực thăng quốc nội bằng nhau.
Khóa 1 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội đã rời Ngân Hà đi học bay vào
khoảng tháng 9/73. Khóa này đỡ hơn khóa 42 HTQS ở chỗ không phải
nghe tiếng Mỹ nhiều từ các huấn luyện viên mới ở Mỹ về, nhưng
ngược lại thì phải học ở hai nơi khác nhau. Theo lời Nguyễn Đình
Hòe kể thì sau thời gian xuyên huấn ở Phi Đoàn 116, ở Sư Đoàn IV
Không Quân Cần Thơ, với U-17 để làm quen với phi cơ, cao độ, phi
cụ, cùng các cảm giác bay bổng, các khóa sinh đã học bay trực
thăng tại Phi Đoàn 245 ở Sư Đoàn III Không Quân Biên Hòa. Nơi đây
thì họ đã được chia làm hai toán, A và B, cứ toán nào học địa huấn
buổi sáng thì chiều học bay và ngược lại. Trong số 41 khóa sinh,
có 37 SVSQ khóa 72A và bốn SVSQ khóa 72B. Những anh em 72A được kể
ra sau đây.
1. Đỗ Văn Ban, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
2. Hứa Văn Bảo, Phi Đoàn 251, Biên Hòa
3. Đỗ Văn Bính, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
4. Nguyễn Văn Bực, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
5. Nguyễn Công Chánh, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
6. Nguyễn Văn Châu, ra bộ binh ở Long Thành
7. Ngô Đình Chi, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
8. Nguyễn Văn Chiến, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
9. Nguyễn Văn Cửu, PĐ 251, Biên Hòa
10. Võ Đức Di, PĐ 235 Sơn Dương, Pleiku
11. Ủ Văn Anh Dũng, PĐ 221/245, Biên Hòa
12. Trần Văn Duy, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
13. Nguyễn Văn Đại, PĐ 231/245, Biên Hòa
14. Đinh Đông Định, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
15. Huỳnh Thanh Hải, PĐ 251, Biên Hòa
16. Lê Minh Hải, PĐ 243 Mãnh Sư, Phù Cát
17. Châu Minh Hoàng, PĐ 229 Pleiku
18. Nguyễn Văn Hóa, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
19. Nguyễn Đình Hòe, PĐ 221 Lôi Vũ, Biên Hòa
20 Nguyễn Đình Hồng, PĐ 223, Biên Hòa
21. Châu Thiên Huệ, PĐ 229 Pleiku
22. Nguyễn Quang Hưng, PĐ 223, Biên Hòa
23. Đinh Sỹ Hưng, PĐ 251, Biên Hòa
24. Hoàng Hữu Khuê, PĐ 251, Biên Hòa
25. Hoàng Đình Lai, PĐ 223, Biên Hòa
26. Đặng Thanh Liêm, PĐ 223, Biên Hòa
27. Trần Đình Long, PĐ 223, Biên Hòa
28. Lê Văn Nguyên, PĐ 223, Biên Hòa
29. Đỗ Tiến Như , PĐ 231, Biên Hòa
30. Phùng Văn Ninh, PĐ 251, Biên Hòa
31. Võ Kim Phi, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
32. Liêu Huỳnh Phong, PĐ 251, Biên Hòa
33. Đỗ Văn Quá, PĐ 243 Mãnh Sư, Phù Cát
34. Vũ Xuân Quảng, PĐ 251, Biên Hòa
35. Nguyễn Văn Sơn, PĐ 221/245, Biên Hòa
36. Nguyễn Xuân Sơn, PĐ 251, Biên Hòa
37. Phạm Duy Sơn, PĐ 215 Thần Tượng, Nha Trang
Nhiều chàng có biệt danh từ khi ở Nha Trang, nhưng Nguyễn Công
Chánh của Khóa 1 HTTT thì đã có biệt danh khi đang học bay U-17 ở
Cần Thơ. Một hôm sau khi hết phép trở lại, Hải Ác Tăng đã nói với
các bạn rằng, “Ê tụi bây hồi nẫy lúc ngồi xe đò tao thấy thằng lơ
xe coi y chang như thằng Chánh.” Cả bọn cười ồ lên, và cái tên
Chánh Lơ Xe đã có từ hôm đó, dù Hải không cố tình đặt, nhưng Chánh
phải mang cho đến bây giờ. Kể ra với tướng tá “thư sinh trắng
trẻo” như Chánh mà bị cái tên này thì hết sức là oan uổng...
Ở đời nhiều khi bên dưới những mặt nước trầm lặng âm thầm là những
cơn sóng ngầm chảy xiết. Một trường hợp điển hình là bạn Nguyễn
Văn Bực. Trong suốt thời gian mười mấy năm ở cùng thành phố với
bạn này ít có ai được hắn cho diện kiến. Nếu bạn nào muốn gặp Bực
trong tương lai, tôi đề nghị là cứ đến nhà hắn đập cửa vào khoảng
nửa đêm, và nếu hắn không mở cửa thì cứ đứng lỳ ra đó và kêu rầm
lên để đánh thức tất cả hàng xóm dậy như là đi đòi nợ vậy. Đó
chính là cách tôi dùng để lấy bài viết của bạn này...
Bây giờ tôi xin nhường lời cho Bạn Bực nói về thời mọc cánh
"Cái gì đến thì nó phải đến, và do đó tớ được học bay. Nếu nói bay
U-17 thì tớ đã được Đại Úy Nhơn truyền cho trên dưới 100 giờ bay ở
Bình Thủy, Cần Thơ. Thời kỳ này tớ khoái nhất. Thần ưng cũng cất
cánh hạ cánh taxi ào ào ra phết. Có lần trong phi vụ huấn luyện
làm triệt nâng có máy và triệt nâng phụ ở gần phi trường Rạch Sỏi
là tớ nhớ để đời. Hôm đó Đại Úy Nhơn đã cho tớ chạy bộ ở phi
trường vì không thuộc bài. Lúc cất cánh tớ đã đạp phía trên hai
pedal để thắng thay vì đạp phía dưới để điều khiển bánh lái và
cánh đuôi .
"Sau tớ chán bay U-17 vì lý do giản dị là sau 100 giờ mà không
solo được . May mà tớ lết được về theo anh em học bay trực thăng ở
Biên Hòa.
"Anh em 72A trong Khóa 1 Hoa Tiêu Trực Thăng thân mến, đây là khúc
quanh của đời tớ. Cái chiếc trực thăng sao mà nó dễ thương lạ
lùng. Chiếc U-17 trước kia đã lì lợm ngựa chứng bao nhiêu thì
chiếc UH-1 nó nhẹ nhàng êm ái bấy nhiêu. Trung Úy Sơn đã truyền
biệt nghệ cho tớ, chỉ sau 11 giờ bay là tớ đã nghiễm nhiên thành
một trong bốn thằng solo đầu cùng với Nguyễn Văn Châu, Đỗ Tiến
Như, và Đinh Sỹ Hưng. Một lần tớ bay huấn luyện với Thiếu Tá Hùng
trên Long Thành làm cất cánh hạ cánh bình phi và hovering. Trên
đường trở về Biên Hòa thì Thiếu Tá Hùng khám phá ra rằng máy đã
tắt trong khi tớ đang chăm chú nghe tổng đài liên lạc để vào phi
đạo. Ở cao độ 1200 bộ tớ định làm một cái standard auto landing
nhưng vừa down pitch thì Thiếu Tá Hùng bảo tớ để cho ông bay. Tớ
nói 'OK, thưa Thiếu Tá' chưa dứt câu thì tàu đã hạ càng trên một
miếng ruộng hoang ở Long Thành. Bằng một giọng ấm áp, ôn hòa,
Thiếu Tá Hùng đã hỏi tớ có sợ hay không. Tớ không biết làm sao mà
ông ấy đã bình tĩnh được như vậy trong khi tớ thì quá bàng hoàng.
Ông chỉ nói giản dị 'Anh Bực ơi, chắc tàu bị gãy đuôi' trước khi
hai thầy trò lên một chiếc khác để về lại phi trường Biên Hòa.
Hình ảnh đó tớ ngồi đây một mình trong đêm ôn lại giống như đang ở
trước mặt.
"Trong những lần bay huấn luyện sau đó vì đã nếm mùi hiểm nguy tớ
dè dặt hơn và học hành cũng kỹ càng hơn. Tớ check P-1 với Trung Úy
Út. Hình như ông này cũng là thầy của AC Nuôi. Sau đó tớ check P-2
với Trung Úy Dũng."
Sự nghiệp văn nghệ của Xuân Sơn vẫn tiếp tục trong thời gian nằm
trong Khóa 1 HTTT học bay ở Phi Đoàn 245. Ở ngoài phố Biên Hòa,
Sơn đã từng hát ở rạp Thanh Bình và sân patin Lôi Hổ. Xưa ở Nha
Trang Sơn đã được nhắc nhở qua bài Thu Vàng thế nào thì ở Biên Hòa
chàng đã thành công với bản Giết Người Trong Mộng thế ấy. Khi ra
phố có nhiều cô nữ sinh trường Ngô Quyền đã theo Sơn nhắc nhở bài
này. Sau này khi ra Nha Trang học bổ túc giai đoạn 2 quân sự, Sơn
đã hát ở matineé (xuất trưa) tại một vũ trường ở đường Độc Lập.
Bố mẹ của Xuân Sơn thì ở ngoài Phan Thiết, nhưng Sơn có bố mẹ nuôi
ở Biên Hòa. Bởi vậy, trong thời gian học bay, các bạn có gia đình
ở xa như Đỗ Văn Bính, Lê Minh Hải, và Nguyễn Văn Hóa đã hay về nhà
Sơn nghỉ ngơi, nhất là trong các ngày lễ tết.
Trong số khóa sinh của Khóa 1 HTTT, trừ Châu Đá bị loại vì lý do
sức khỏe ra thì tất cả đều được gắn cánh bay. Như đã liệt kê bên
trên, những phi công xuất thân từ Khóa 1 HTTT hầu hết bay ở Biên
Hòa, trừ vài người ra Pleiku, Phù Cát, và Nha Trang.
Khoảng một tháng sau Khóa 1, Khóa 2 HTTT đã khai giảng ở phi
trường Trà Nóc Cần Thơ. Những anh em sau đây đã có tên trong khóa
này:
1. Nguyễn Văn Dân, PĐ 255 Cần Thơ
2. Trần Hữu Du
3. Mai Thanh Hoàng, PĐ 255 Cần Thơ
4. Nguyễn Đình Hồng (Già), PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
5. Nguyễn Thành Hơn, PĐ 229 Pleiku
6. Nghiêm Xuân Mạnh, PĐ 227, P/Đội 259H Cần Thơ, PĐ 211 Thần Chùy
Cần Thơ
7. Lê Công Ngữ, PĐ 243 Mãnh Sư Phù Cát
8. Trương Tấn Phát, PĐ 255 Cần Thơ
9. Lê Quang Sang, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
10. Phạm Hoàng Tảo
11. Nguyễn Thành Tài, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
12. Hoàng Văn Thanh, bị loại về Nha Trang
13. Phạm Văn Thế, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
14. Nguyễn Hoàng Thọ, PĐ 227 Cần Thơ
15. Nguyễn Thái Thọ, PĐ 227 Cần Thơ
16. Hà Tấn Thông, PĐ 255 Cần Thơ
17. Quách Dũng Tiến, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
18. Nguyễn Hữu Tín, PĐ 225 Ác Điểu Cần Thơ
19. Võ Văn Triên
20. Vũ Đức Trọng, PĐ 227 Cần Thơ
21. Trương Đình Tuyền
Khóa 2 HTTT đã kết thúc vào đầu năm 74. Trong thời gian học, Lê
Công Ngữ vì ham đánh bài với Tài Miên mà đói dài dài đến nỗi phải
đi mò khoai của các quân nhân cơ hữu trồng mang về luộc ăn cầm hơi
để hôm sau đi học bay tiếp. Trong khi Ngữ vì không có tay nghề
kiếm không đủ khoai ăn thì Nghiêm Xuân Mạnh ra khoét dọc theo chân
các luống khoai moi từng thùng khoai non mới lớn bằng ngón tay cái
và chặt những buồng chuối non đem về buồng treo lên chơi. Khi
Trọng Đen hỏi Mạnh rằng “mày không ăn tha về để làm gì” thì Mạnh
chỉ toét miệng ra cười, bởi chính đương sự cũng không biết để làm
gì nữa.
Khóa 3 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội có ba anh em 72A là
1. Huỳnh Văn Dũng, Phi Đoàn 215 Nha Trang
2. Đặng Chấn Kỳ, Phi Đoàn 213 Song Chùy Đà Nẵng
3. Đào Huy Thái, Phi Đoàn 253 Sói Thần Đà Nẵng
Theo lời kể của Đặng Chấn Kỳ:
"Khóa 3 học bay ở Đà Nẵng. Khóa 3
khai giảng sau Khóa 2 một tháng, tức là khoảng cuối năm 73, và ra
trường tám chín tháng sau đó, lúc trời đang nóng như đổ lửa.
Tiểu sử của Khóa 3 HTTT cũng khá ly kỳ. Vào khoảng giữa năm 73,
hơn 40 sinh viên sĩ quan đã về Sài Gòn chờ đi Mỹ. Khi về tới nơi,
vì nóng lòng về thăm nhà sau gần một năm xa cách, tất cả đều bỏ đi
về hết. Trung Úy Tấn không có cách gì hơn là phải làm thủ tục báo
cáo với phòng nhân viên rằng cả đám vắng mặt không có giấy phép.
Một tuần lễ sau cả đám, kể cả Đặng Chấn Kỳ, trở lại trại ông Quế
thì được cho hay rằng sau khi vắng mặt không có giấy phép 48 tiếng
đồng hồ là coi như đã đào ngũ, và thế là tất cả cứ ở trong trại mà
không được ai điểm danh cả. Một tuần sau nữa thì tất cả được đưa
qua phòng An Ninh Quân Đội ở số 7 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm để thẩm
vấn. Sau khi thẩm vấn xong, sở An Ninh Quân Đội đã kết luận rằng
cả đám đều thuộc thành phần vô kỷ luật. Trong số hơn 40 thằng về
chỉ có mấy thằng con ông lớn là được ở lại đi Mỹ, số còn lại dồn
hết vô Khóa 3 trực thăng. Ngoài 3 bạn 72A ra còn có hai niên
trưởng cán bộ là Út hình như từ khóa 70A và Viết từ khóa 71. Phần
còn lại là các khóa đàn em."
Để bổ túc cho lời kể của Đặng Chấn Kỳ, bạn Đào Huy Thái cùng trong
toán về Tent City lần đó kể rằng
" trong số anh em 72A còn có Huỳnh
Văn Dũng, Phó Hoàng Trí, và Đoàn Anh Tú. Cả toán nằm dưới sự hướng
dẫn của Thiếu Úy Tấn về trình diện Bộ Tư Lệnh. Sau khi C-130 đáp
xuống Tân Sơn Nhất, Thiếu Úy Tấn đã ra lệnh tập trung điểm danh.
Vì hôm đó nhằm ngày thứ sáu, tất cả anh em đã lên tiếng xin cho về
thăm gia đình đến sáng thứ hai sẽ vô trình diện. Khi bị từ chối,
tất cả đã đồng lòng tan hàng và hẹn gặp lại sáng thứ hai tại cổng
sau gần Tent City để vào trình diện.
Đúng như lời hẹn, tất cả đã tụ tập tại điểm hẹn vào sáng thứ hai.
Sau khi sắp hàng điểm danh xong thì Phó Hoàng Trí đến cổng gặp
quân cảnh trình bày xin vào trình diện nhưng quân cảnh đã trả lời
là phải chờ Bộ Tư Lệnh quyết định. Đến khoảng một giờ trưa thì cả
toán được cho vào làm thủ tục nhập trại và làm thủ tục chào sân...
Sau khi nhập trại rồi, ngày qua ngày gần một tháng không có ai
thèm đếm xỉa gì tới. Có vài SVSQ trong các khóa đàn anh không biết
nghe tin ở đâu về cho biết có lẽ tất cả sẽ ra bộ binh. Thình lình
trưa hôm đó có một văn thư từ Bộ Tư Lệnh gửi tới trại cho biết có
ba người được làm thủ tục theo học tại trường Sinh Ngữ Quân Đội.
Ba người này là Phó Hoàng Trí, Đoàn Anh Tú, và một người khóa đàn
em. Số anh em còn lại rất giận dữ, và nêu thắc mắc là tại sao chỉ
có ba người. Sau bữa ăn chiều hôm đó, tất cả đã họp lại để hỏi xem
có phải vì ba người này đã vào trình diện trước, nhưng tất cả đều
phủ nhận. Theo lời yêu cầu anh em trong toán, ba người đã xác nhận
trên giấy trắng mực đen là đã không có vào trình diện Bộ Tư Lệnh
hôm thứ sáu. Với bằng chứng này, tất cả anh em đã yêu cầu Bộ Tư
Lệnh giải thích lý do.
Sau một tuần lễ chờ đợi thì câu trả lời đã không giống như anh em
mong đợi. Tất cả đã được đưa đến số 2 Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức là
một phòng an ninh quân đội trực thuộc Không Quân, trên một chuyến
xe buýt để điều tra sự vụ.
Lúc tới nơi, tất cả đã được Thiếu Tá Thức phát cho mỗi người một
tờ giấy ca rô và chỉ định mỗi người một góc tường trình mọi chi
tiết của chuyến đi về trình diện Bộ Tư Lệnh. Sau khi khai xong,
tất cả đã được đưa trở lại trại để chờ. Kết quả là Thiếu Úy Tấn bị
ký củ và giam lon sáu tháng, bởi lúc đó đã có quyết định thăng cấp
trung úy cho ông ta. Phó Hoàng Trí và Đoàn Anh Tú đã bị ra bộ
binh. Tất cả số còn lại được cho học Khóa 3 HTTT quốc nội tại Đà
Nẵng. Một người còn lại trong ba người có tên trong văn thư đầu
tiên thì nghe đâu là COCC nên không biết ra sao. Khóa 3 HTTT đã
hoàn tất vào ngày 2/5/74".
Khóa 4 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội học bay ở Biên Hòa. Trong khóa
này có các bạn 72A Trần Hớn Dân, Vũ Văn Ninh, Hoàng Văn Thanh, và
Huỳnh Văn Tỵ.
Khóa 5 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội học bay ở Cần Thơ. Chuyện anh
em 72A trong khóa này đi kèm với giai thoại "13 Con Ma". Hãy nghe
chính lời của một trong 13 Con Ma là bạn Út Small kể lại:
"Vào khoảng đầu năm 73, mười bốn anh em 72A sau đây đã về Trung Tâm Giám Định Y Khoa Tân Sơn Nhất khám để theo học khóa 2 HTTT Cần Thơ:
1. Võ Thành Long Châu, Phi Đoàn 255 Xà Vương
2. Nguyễn Hữu Đức, Phi Đoàn 255 Xà Vương
3. Võ Thanh Hà, Phi Đoàn 255 Xà Vương
4. Trần Thanh Hảo
5. Nguyễn Thành Hơn
6. Lê Văn Lâm (Chùa)
7. Nguyễn Văn Luông (Cả Luông), PĐ 255 Xà Vương
8. Nguyễn Văn Son (Cả Son), Phi Đoàn 255 Xà Vương
9. Trần Văn Thành
10. Lê Ngọc Thảo, Phi Đoàn 227 Hải Âu
11. Phan Văn Út (Small), Phi Đoàn 217 Thần Điểu
12. Trương Thanh Vân
13. Nguyễn Hồng Việt (Mắt Lồi)
14. Trương Văn Vĩnh
"Kẻ đã gây ra mọi chuyện rắc rối là người mang số 5 trong danh sách bên trên. Nguyễn Thành Hơn quê ở tuốt trong Hóc Bà Tó là địa danh cuối cùng của miền Nam.
"Sau khi khám bệnh xong, cả toán đồng ý dzù về thăm nhà cho đỡ... nhớ và hẹn đúng một tuần sau sẽ trở ra trình diện ông Bé. Không hiểu vì nhà ở quá xa Sài Gòn hay bị đào đá nên Ông Thần Nguyễn Thành Hơn quên đi lời hẹn ước lót tót ra Nha Trang một mình trình diện ông Bé. Thế là hư bột hư đường ráo trọi. Khứa Bé biết bọn này dzù dzọt nên lập tức cho toán khác về Sài Gòn khám sức khỏe trám vô.
"Một tuần sau đó y hẹn tất cả ra trình diện đúng ngày, không ngờ ngày trở ra là ngày vô Cải Hối Thất Phi Dũng, lãnh 26 ngày trọng cấm và bị loại ra khỏi Khóa 2 Hoa Tiêu Trực Thăng. Hơn ơi là Hơn, mày hại anh em mày hại bạn bè.
"Ôi không gian giờ đây ta mới biết,
"Chuyện dzọt dzù giết chết một đời ta .
"Sau đó chỉ có Nguyễn thành Hơn là được đi học bay , 13 tên còn lại chịu cảnh tù đày. Sau khi mãn tù về lại đoàn SVSQ để trình diện Thiếu Tá Bé, có lẽ vì hối hận việc mình đã làm hoặc trong thời điểm đó khóa đàn anh không còn ai nên 'khứa' nâng đỡ tụi này lên làm cán bộ để hướng dẫn các khóa đàn em. Tất cả đều nằm trong hệ thống cán bộ chỉ huy, duy chỉ có Võ Thành Long Châu và Út Small tôi không chịu ra hàng nên ông Bé bắt làm tạp dịch ở văn phòng ông ấy đôi ba ngày rồi cũng quên luôn.
"Trong thời gian chờ đợi đó, mặc dù cuộc sống có thoải mái là không phải tạp dịch, tập họp điểm danh, dzù ra phố chơi mút chỉ, nhưng vì không biết tương lai đi về đau nên thằng nào cũng trầm lặng và ưu tư như những bóng ma với bao nỗi lo lắng... Thế là danh từ '13 Con Ma' hay '13 Thằng Lôi Hổ' ra đời. Trong 13 thằng đó có 2 không chịu hưởng cái ơn mưa móc do một người ban cho, mà người đó vì sự bực tức nhất thời mà suýt chút nữa là đã hại cuộc đời của một nhóm người trẻ đầy nhiệt huyết nghe theo tiếng gọi của non song mà 'xếp bút nghiên theo việc đao binh' với mong ước rằng ít nhiều mình sẽ góp một bàn tay để bảo vệ quê hương. Cả bọn phải chờ gần một năm sau khi ông Bé và Bộ Tư Lệnh Không Quân 'xóa bỏ hận thù' mới cho đi học khóa sau, dù sao thì cũng còn hên...
"Mười Ba Con Ma là nhóm 72A cuối cùng rời đoàn SVSQ đi học bay. Chúng tôi đã nhập chung với các khóa đàn em để theo học Khóa 5 Trực Thăng Cần Thơ. Nhờ trời tất cả đều ra trường, trừ Trương Văn Vĩnh bởi 'lên tướng một sao' nên đã bị loại vì lý do sức khỏe. Cả Luông solo đầu; Lê Ngọc Thảo chiếm thủ khoa. Mười hai anh em đã ra phi đoàn bay bổng được vài tháng cho đến ngày đứt phim 30/4.
" Các bạn ơi! Rủi ro thay cho vận nước, chúng mình bị cái đại họa Cộng Sản nên giờ đây chịu kiếp sống lưu vong, canh cánh bên mình với bao nỗi niềm hoài vọng cố hương."
Trong 13 Con Ma, chỉ có Võ Thành Long Châu và Phan Văn Út là không ra làm cán bộ vì thích lè phè. Bạn Út có bày một bàn cờ tướng chiêu mộ được nhiều anh em suốt ngày đấu trí với nhau.
Theo Võ Thanh Hà thì Trần Thanh Hảo sau khi tốt nghiệp ra Pleiku thì đã bị bắn rớt tàu trong phi vụ hành quân đầu tiên và sau đó đã không còn đi bay nữa.
Khóa 6 Hoa Tiêu Trực Thăng Quốc Nội học bay ở Đà Nẵng. Trong khóa này chỉ có Lý Minh Trung là SVSQ 72A duy nhất. Ngày xưa Trung đã làm trưởng toán dẫn anh em khóa sinh về Trung Tâm Y Khoa Không Quân tại Tân Sơn Nhất khám sức khỏe để gia nhập Khóa 1 HTTT, nhưng bì bị viêm xoan hàm (sinus), nên phải nhập viện khẩn cấp tại TTYKKQ điều trị. Sáu tháng sau khi Trung đủ sức khỏe để đi học bay thì tên của chàng lọt vào Khóa 6 HTTT.
Lý Minh Trung là một người trong khóa 72A mà anh em ít gặp nhất. Chàng ta đã được ông Bé cho sự vụ lệnh ra làm việc ở ngoài phố Nha Trang cho đến khi đi học bay.
Theo lời Võ Thanh Hà trong 13 Con Ma thì các Khóa 4, 5, và 6 HTTT khai giảng cách nhau chừng một tháng từ khóa này qua khóa sau. Giai đoạn mà các khóa này sắp khai giảng là giai đoạn buồn nhất của Đoàn Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân. Vào khoảng trước tết con cọp tức là khoảng đầu tháng 2/74, Bộ Tư Lệnh Không Quân thông báo danh sách của ba khóa 4, 5, và 6, và đồng thời cho biết rằng tất cả những sinh viên sĩ quan còn lại đều phải ra bộ binh. Con số này lên đến sáu bẩy trăm người.
Sau khi tin này được loan ra thì không khí trong trại Thiên Nga hết sức buồn bã. Những anh em có tên đi học tối tối thường dù ra phố ngủ, một phần vì muốn tránh mặt những người bạn thiếu may mắn không có tên trong danh sách tài khóa. Ăn tết con cọp vừa xong thì một đoàn mấy chục chiếc xe GMC từ Đồng Đế chạy tới trại Thiên Nga để đưa những người bạn này rời trại và đồng thời cũng là rời khỏi binh chủng không quân.
Trong những đêm cuối cùng của đoàn Sinh Viên Sĩ Quan đó, Võ Thanh Hà ngủ trong trại, một phần là vì không quen ai ở ngoài phố, phần kia là vì chàng là người chịu trách nhiệm cho toàn trại. Như vậy thì Võ Thanh Hà chính là người làm cán bộ lâu nhất trong Khóa 72A. Hà là một trong những anh em 72A làm cán bộ đầu tiên, và cũng là một trong những anh em 72A làm cán bộ sau cùng. Sau khi các khóa 4, 5, và 6 HTTT rời Thiên Nga là đoàn SVSQ đóng cửa luôn.
Khi mỗi một trong ba khóa 4, 5, và 6 HTTT hoàn tất huấn luyện thì những khóa sinh tốt nghiệp về thẳng Nha Trang để học Giai Đoạn 2 Quân Sự. Sau đó cả ba khóa trực thăng, Khóa 2 T-37 , và Khóa 1/74 Quan Sát Viên cùng làm lễ ra trường tập thể ở Nha Trang. Trong buổi lễ ra trường vào tháng 12/74 có Chuẩn Tướng Lành tham dự. Ra trường xong là các anh em nhận sự vụ lệnh về phi đoàn trình diện luôn.
Dù đa số phi công trực thăng xuất thân từ khóa 72A đã học bay tại Việt Nam, có những anh em học bay từ Mỹ về, và cũng đã ra phi đoàn tham dự hành quân. Bởi nếu tính từ ngày nhập ngũ cho đến lúc mãn khóa học mà trên hai năm thì được ra trường với cấp bậc thiếu úy, những bạn học bay ở Mỹ về thường là ra trường với cấp bậc này vì có thời gian học thêm Anh ngữ ở Mỹ.
Vào tháng 7/73, 18 SVSQ đã lên đường đi du học Mỹ trong một tài
khóa trực thăng. Trong số đó có những anh em 72A như Phan Hoàng
Hải, Trần Bá Sơn, và Lương Tường Vân.
Nếu kể về dân 72A học trực thăng ở Mỹ và đã ra đơn vị đánh giặc thì có 4 chàng sau:
1. Trần Minh Hiển, Khóa 74-22
2. Tạ Hoàng, Khóa 74-22
3. Nguyễn Tấn Thành (Cao), Khóa 74-22
4. Trần Bá Sơn, Thủ Khoa Khóa 74-24 , PĐ 255 XàVương
Khóa 74-24 trực thăng nhập học tại trường bay Ft. Rucker, tiểu bang Alabama tháng 10/73. Sau khi tốt nghiệp, Trần Bá Sơn đã về VN vào tháng 8/74. Sau khi chọn phi đoàn, Sơn trở lại Nha Trang học Giai Đoạn 2 Quân Sự cuối tháng 8/74. Sau khi tốt nghiệp, Sơn về trình diện Phi Đoàn 255 Xà Vương Cần Thơ vào khoảng tháng 12/74.
Bây giờ kể tới phần anh em học bay phản lực. Trong số 14 anh em đậu Anh Ngữ về Sài Gòn ngay trong thời gian huấn nhục để đi Mỹ thì chỉ có 11 là đi ngay. Qua trường bay sớm nhất là Trần Anh Tuấn và Trần Văn Phiêm. Kế tiếp là Lý Văn Ánh, Nguyễn Ngọc Châu Phòng, và Nguyễn Trọng Tiến.
Đoàn Anh Thuấn là một trong 14 anh em đậu Anh ngữ về Sài Gòn đi Mỹ trong đợt đầu tiên. Vì đi sớm nên Thuấn ngại rằng các anh em khác cho rằng không có nhiều kỷ niệm chung với họ. Thuấn đã học T-37 tại Sheppard AFB ở Wichita Falls, Texas. Sau đó Thuấn theo học Khóa 74-07 là khóa bay A-37 cuối cùng có các khóa sinh VN ở Mỹ tại England AFB ở Alexandria, Louisiana. Lớp này có 13 khóa sinh người Việt, trong đó có bốn anh em 72A là Trần Ngọc Dương, Nguyễn Thiện Nhượng, Lê Hữu Thiện, và Đoàn Anh Thuấn . Thuấn và Trần Ngọc Dương cùng đậu thủ khoa. Cùng về Việt Nam trong tháng 7/74, Thuấn và Trần Ngọc Dương ra Phi Đoàn 520 Cần Thơ.
Trần Văn Tỵ thuộc đợt hai đậu Anh văn và từ Nha Trang về đi Mỹ trong tháng 12/72. Nhóm này gồm có mười người là: Huỳnh Đình Chí, Lý Anh Dũng, Chu Văn Hùng, Đỗ Minh Hùng, Nguyễn Thanh Phương, Trần Văn Tỵ [mới có 6, còn ai???]
Khóa 74-09 học T-37 khai giảng vào cuối tháng 1/74 ở Sheppard Air Force Base ở Texas gồm có các anh em 72A sau: Lê Văn Cảnh, Huỳnh Đình Chí, Chu Văn Hùng, Đỗ Minh Hùng, Nguyễn Thanh Phương (Mập), Trần Văn Tỵ Bắc Kỳ. Trong một khóa T-37 khác của năm 74 có Nguyễn Hoàng Tân và Nguyễn Tấn Thành.
Trần Văn Tỵ ra Phi Đoàn 532 Gấu Đen ở Phù Cát. Nguyễn Thiện Nhượng đã về phi đoàn này trước.
Sau đây hãy nghe Đỗ Minh Hùng kể chuyện học bay ở Mỹ.
Nếu kể về dân 72A học trực thăng ở Mỹ và đã ra đơn vị đánh giặc thì có 4 chàng sau:
1. Trần Minh Hiển, Khóa 74-22
2. Tạ Hoàng, Khóa 74-22
3. Nguyễn Tấn Thành (Cao), Khóa 74-22
4. Trần Bá Sơn, Thủ Khoa Khóa 74-24 , PĐ 255 XàVương
Khóa 74-24 trực thăng nhập học tại trường bay Ft. Rucker, tiểu bang Alabama tháng 10/73. Sau khi tốt nghiệp, Trần Bá Sơn đã về VN vào tháng 8/74. Sau khi chọn phi đoàn, Sơn trở lại Nha Trang học Giai Đoạn 2 Quân Sự cuối tháng 8/74. Sau khi tốt nghiệp, Sơn về trình diện Phi Đoàn 255 Xà Vương Cần Thơ vào khoảng tháng 12/74.
Bây giờ kể tới phần anh em học bay phản lực. Trong số 14 anh em đậu Anh Ngữ về Sài Gòn ngay trong thời gian huấn nhục để đi Mỹ thì chỉ có 11 là đi ngay. Qua trường bay sớm nhất là Trần Anh Tuấn và Trần Văn Phiêm. Kế tiếp là Lý Văn Ánh, Nguyễn Ngọc Châu Phòng, và Nguyễn Trọng Tiến.
Đoàn Anh Thuấn là một trong 14 anh em đậu Anh ngữ về Sài Gòn đi Mỹ trong đợt đầu tiên. Vì đi sớm nên Thuấn ngại rằng các anh em khác cho rằng không có nhiều kỷ niệm chung với họ. Thuấn đã học T-37 tại Sheppard AFB ở Wichita Falls, Texas. Sau đó Thuấn theo học Khóa 74-07 là khóa bay A-37 cuối cùng có các khóa sinh VN ở Mỹ tại England AFB ở Alexandria, Louisiana. Lớp này có 13 khóa sinh người Việt, trong đó có bốn anh em 72A là Trần Ngọc Dương, Nguyễn Thiện Nhượng, Lê Hữu Thiện, và Đoàn Anh Thuấn . Thuấn và Trần Ngọc Dương cùng đậu thủ khoa. Cùng về Việt Nam trong tháng 7/74, Thuấn và Trần Ngọc Dương ra Phi Đoàn 520 Cần Thơ.
Trần Văn Tỵ thuộc đợt hai đậu Anh văn và từ Nha Trang về đi Mỹ trong tháng 12/72. Nhóm này gồm có mười người là: Huỳnh Đình Chí, Lý Anh Dũng, Chu Văn Hùng, Đỗ Minh Hùng, Nguyễn Thanh Phương, Trần Văn Tỵ [mới có 6, còn ai???]
Khóa 74-09 học T-37 khai giảng vào cuối tháng 1/74 ở Sheppard Air Force Base ở Texas gồm có các anh em 72A sau: Lê Văn Cảnh, Huỳnh Đình Chí, Chu Văn Hùng, Đỗ Minh Hùng, Nguyễn Thanh Phương (Mập), Trần Văn Tỵ Bắc Kỳ. Trong một khóa T-37 khác của năm 74 có Nguyễn Hoàng Tân và Nguyễn Tấn Thành.
Trần Văn Tỵ ra Phi Đoàn 532 Gấu Đen ở Phù Cát. Nguyễn Thiện Nhượng đã về phi đoàn này trước.
Sau đây hãy nghe Đỗ Minh Hùng kể chuyện học bay ở Mỹ.
"Sau khi tốt nghiệp khóa Anh ngữ ở căn cứ Lackland, tôi có tên trong danh sách di qua trường bay Hondo để được huấn luyện giai đoạn 1 phi hành, tức là học bay T-41. Lòng tôi tuy vui mừng nhưng không khỏi lo lắng. Đây là bước rẽ của đời bay bổng. Tôi lân la tìm hiểu về những ông thầy bay. Mỗi người một tính. Trong nhờ đục chịu. Lo cho lắm, tắm cũng cởi truồng. Đa số thầy bay là dân sự, vì thiếu thầy quân sự. Nam 72 là cao điểm cho khóa sinh Không Quân Việt Nam đi ngoại quốc lấy cánh bay. Mỹ Việt phải vội vàng vì hiệp định Paris có đoạn về bình thường hóa quân đội Việt.
"Ở Hondo, có một thầy bay khét tiếng tàn nhẫn. Hắn là người Mễ Tây
Cơ, tên Volander mà phe ta gọi la Võ Lang Đài. Mỗi ông thầy sẽ
chọn 4 khóa sinh. Riêng tên này luôn luôn cho rớt 2 khóa sinh, bất
kể họ bay giỏi cỡ nào. Khóa tôi không ai muốn học với hắn. Ngày
đầu tiên trình diện thầy bay là ngày lạnh lùng nhất trong đời bay
bổng của tôi. Sau màn giới thiệu, thầy bay bắt đầu chọn đệ tử. Tên
nào trúng thầy hiền thì vui như trúng số, chưa học mà đã thấy đậu
rồi. Tôi được Võ Lang Đài chọn. Cả khóa nhìn những đệ tử của hắn
với ánh mắt phân ưu.
"Các điểm phê ở trường bay như sau: U đỏ là unsatifactory, U đen
là unable, F là fair, G là good, và E là excellent. Hai U đỏ liên
tiếp là ngừng bay, chờ ngày ra hội đồng. Tùy theo khả năng, khóa
xinh có thể được học lại khóa sau hoặc đi không phi hành nếu có
tài khóa, hoặc đi về nước làm cái gì đó không biết. Hai U đen liên
tiếp là thành một cái U đỏ. Ngạc nhiên thay, trong sáu bẩy phi vụ
huấn luyện đầu, hắn đều cho tôi E. Cái cánh bay coi như đã chắc
đeo trên ngực, tôi xoay sang ái ngại cho 2 con vịt đẹt–hình như
Nguyễn Thanh Phương ở trong nhóm của tôi.
"Đến bài slow flight là bài dễ nhất trong các thao diễn, không
hiểu sao tôi bị ngọng. Đáp thì không có gì trở ngại, dù trong bài
đáp có kèm slow flight, nhưng khi làm slow flight riêng rẽ thì
ngọng. Máy bay không quá tốc độ thì lại đâm nhào. Võ Lang Đài cho
tôi U đen.
"Đến ngày hôm sau, làm lại bài slow flight, tôi lại thất bại. Võ
Lang Đài chán nản không tập thêm cho tôi những thao diễn khác. Hắn
quay máy bay về phi trường. Tôi được han cho thêm 1 cái U đen. Như
thế là thành 1 cái U đỏ.
"Một cái U đỏ nữa là chấm dứt nghiệp bay. Tôi buồn bã không chuyện
trò với ai trong khóa, và cũng chẳng ai muốn nghe tâm sự của tôi.
Người nào cũng có nỗi lo, dù một số đã solo.
"Ngày định mệnh đã tới. Tôi đi ra phi đạo như cái xác không hồn.
Có thể đây là phi vụ cuối trong đời bay bổng của tôi. Cho dù tôi
có làm được slow flight đi nữa, tôi cũng sẽ bị liệt vào 1 trong 2
con vịt đẹt. Kết quả trong hôm đó không khá gì hơn ngày hôm trước,
vì tôi vẫn không bay được slow flight. Võ Lang Đài la ó um xùm,
rồi chửi rủa, miệt thị. Nào là bà nội hắn hơn 80, mắt đã nhòa xỏ
kim không qua, nhưng bay slow flight nhuyễn như cháo. Nào là con
khỉ nếu được huấn luyện như tôi thì có lẽ đã solo từ đời thuở nào
rồi.
" Võ Lang Đài tha hồ nói. Tôi không nghe nữa. Mình sẽ thu dọn hành
lý chờ ngày về nước. Nhục nhã quá chẳng còn biết nói gì. Bất chợt
hắn chồm qua bóp cổ tôi. Theo phản ứng tự nhiên, tôi gạt mạnh tay
hắn ra. Hắn sững sờ nhìn tôi. Tôi lặng lẽ nhìn hắn. Hắn rút xì gà
châm lửa. Hắn có thói quen là khi trên tàu lúc nào điếu xì gà cũng
gắn trên môi. Tôi thầm nghĩ, đây là chuyến bay cuối, hắn hút thì
tôi hút. Tôi bỏ cần lái, moc túi lấy thuốc hút. Hắn nhìn tôi. Tôi
nhìn hắn. Hai ánh mắt chạm nhau. Hắn quay mặt đi. Tôi quay mặt về.
"Chiếc máy bay không người điều khiển từ từ chúi xuống. Nước mắt
bắt đầu lăn trên đôi má tôi. Tôi chẳng còn gì để sống, thôi thì
'đi không ai tìm xác rơi'. Võ Lang Đài cũng chẳng động đậy. Tốc độ
con tàu mỗi lúc mỗi tăng. Mất đất gần lại. Tôi nhớ tới mẹ tôi,
người yêu tôi, và những người thân hôm tiễn tôi đi Mỹ. Tôi nhớ
chiếc bong bóng đỏ của cậu bé lúc bị kim chích nổ tung... Tôi nghĩ
tới tên thầy bay Mễ Tây Cơ khốn nạn. Cũng vì mày mà bao nhiêu mộng
tan tành. Thôi thì mình chết với nhau.
"Những con bò dưới cánh đồng càng lúc càng gần. Đã quyết định
xong, tôi không chụp cần lái. Không chịu được trò chơi ú tim, hay
vì có lẽ chưa muốn chết, hoặc do phản năng sinh tồn tự nhiên, hắn
giơ tay chụp cần. "Kéo mũi con tàu lên trở lại, hắn gào như cha
chết: 'mother fucker'. Chiếc máy bay trực chỉ phi trường Hondo.
Hắn và tôi không trao đổi một lời nào. Hắn châm điếu xì gà. Tôi
châm điếu thuốc. Tôi thấy hài lòng.
"Sau khi Võ Lang Đài taxi tàu vào bãi đậu, tôi đi thẳng vào phòng
bay. Thường thì sau khi đáp là khóa sinh phải cột tàu lại rồi xách
hai cái gối cho hắn. Thân thể hắn không dài quá thước sáu, khi
bay, hắn cần 2 cái gối. Một lót mông và một lót lưng. Hôm nay hắn
phải làm những công việc đó.
"Vào phòng bay xong, tôi đứng chờ hắn. Ve vẩy tờ giấy phê điểm,
hắn nhờ tôi lấy cho hắn ly cà phê với nửa cà phê nóng và nửa nước
lạnh như lệ thường sau mỗi chuyến bay. Tên này hơi quan liêu.
Không có thì giờ nhiều, tôi mang cho hắn một ly cả hai nửa đều là
cà phê nóng. Nhắp môi vào là phun tung tóe, hơi bất lịch sự. Thêm
một tiếng chửi thề dòn. Hắn đưa mắt nhìn tôi. Để giúp hắn, tôi ném
lên bàn cây viết đỏ. Cả phòng bay im lặng nhìn.
"Hắn trả tôi cây viết và rút trong túi ra một cây viết đen. Hắn
ghi điểm xuống: good. Hắn nói với tôi: 'Mày là một thằng cao bồi
Việt Nam.' Tôi cảm ơn và yêu cầu hắn đừng la lối khi tôi bay.
"Đến hôm sau, tự nhiên tôi làm slow flight ngọt ngào. Hắn ngạc
nhiên, và tôi phục tôi quá. Những phi vụ huấn luyện sau đó dễ
dàng. Chỉ ưu tư không biết ai sẽ thành con vịt đẹt.
"Đa số các bạn trong khóa đã hoàn tất giai đoạn 1 chờ ngày đi giai
đoạn 2 tức là học bay T-37 ở Sheppard. Huỳnh Đình Chí tốt nghiệp
với số điểm 94%. Thầy hắn tuyên bố nếu ai hơn điểm sẽ được tặng
hai thùng bia. Tôi thích những thách đố, bởi vàng thiệt không sợ
lửa. Một ông đại tá Mỹ đã check ride tôi với kết quả hơi lạ. Tôi
ra trường với 97% và hai thùng bia.
"Lạ lùng hơn nữa là trong bốn thằng đệ tử của Võ Lang Đài, không
ai làm con vịt đẹt. Tất cả đều mọc cánh. Từ khóa tôi trở đi, Võ
Lang Đài trở thành ông già Noel. Ai được hắn chọn là coi như đã
đeo được nửa cánh bay. Mỗi đời người có nhiều khúc rẽ, nhưng chắc
ít khi mà một chuyến bay đã là hai khúc rẽ, cho cả Võ Lang Đài lẫn
chính bản thân tôi.
"Sau khi ra trường, tôi được bổ xung về Phi Đoàn 520 Cần Thơ nhưng
không thích lắm. Tôi muốn ra Đà Nẵng để gặp Nguyễn Hữu Thiện Tuấn
nhưng không có ai sắp về Đà Nẵng chịu đổi. Chỉ có một người ở Phan
Rang thích về Cần Thơ đề nghị đổi cho tôi và các cho tôi ít tiền
uống cà phê. Tôi nghĩ mặt trận ở vùng đó có lẽ sôi động hơn ở Cần
Thơ và sẽ cho tôi nhiều sự hào hứng hơn nên tôi chịu đổi. Thế là
tôi về Phi Đoàn 534 Không Đoàn 62 Chiến Thuật Phan Rang."
Sau khi học T-41 xong thì các khóa sinh tốt nghiệp đã qua Sheppard
để học bay T-37. Thời gian học ở đây tuy bận nhưng cũng có những
lúc thoải mái.
Hãy
để cho Đỗ Minh Hùng hồi tưởng lại một ngày cuối tuần ở Sheppard:
"Ở căn cứ Shepard, các sinh viên sĩ quan phi hành nhìn có vẻ phi
công lắm. Không vui sao được, vì đã xong nửa cánh bay rồi còn gì.
Hiếm lắm mới có thằng rớt bay phản lực. Dù cho có rớt ở Mỹ thì về
Việt Nam học tiếp rồi cũng đeo cánh. Đời sống thoải mái hơn lúc
học Anh văn và bay T41 vì lương từ khoảng 240 dọt lên 420 đô. Tiền
phòng một tháng chỉ trả 30, gọi là có chút quà cho các em Mễ dọn
phòng. Ăn ở câu lạc bộ sĩ quan sáng tốn 25 xu, trưa 50 xu, và tối
75 xu. Đi chợ 10 đô la đầy tủ lạnh.
Đa số phe ta thích nấu nướng lấy, vừa hợp khẩu vị vừa ít tốn kém.
Đi từ xa đã ngửi thấy nồng mùi nước mắm. Phe ta ở khu nào là ở đó
ít bóng ngoại quốc vãng lai.
"Như các cuối tuần khác, dẫy barrack ồn ào hẳn lên. Tiếng nhạc um
xùm. Túm năm tụm ba nhậu nhẹt. Đêm về thì không khí yên lặng hơn.
Có băng vào câu lạc bộ nghe nhạc uống nước. Có băng ra phố để tìm
bạn bốn phương, dù hơi hao pin. Phí tổn taxi thì chia đều, còn
tiền hotel và em út thì phần ai nấy trả. Đoàn Anh Thuấn văn nghệ
hơn, ôm đàn xuống phố thăm các nữ quân nhân để làm kiếp ca hát
ngày tháng cho người mua vui. (Giọng ca của Thuấn hay tuyệt vời,
chỉ thua tôi một chút thôi.) Riêng phần tôi thì tuần này phải đi
ăn tiệc ở nhà Huỳnh Đình Chí.
"Chuyện khá đơn giản. Chí ta quen một em quân nhân tóc vàng mắt
xanh. Chàng muốn tiến xa hơn ranh giới bạn bè, nhưng còn hơi mắc
cở. Chàng tổ chức một buổi tiệc nhỏ, tính nhờ miếng rượu để mở đầu
câu chuyện lòng. Tôi có nhiệm vụ đi trước lót đường đụng rượu với
em một tăng, và sau đó Chí sẽ kết thúc buổi tiệc. Hy vọng khi cân
tửu lượng của hai thằng, em sẽ không còn biết đường về.
"Sau khi hầu tiếp em đâu khoảng nửa chai whiskey, tôi viện cớ cáo
lui để Chí bắt đẩu tổng tấn công...
"Đêm đi dần vào khuya. Tôi không có gì làm nên còn thức xem ti vi
lai rai. Chợt thấy có bóng ai ngoài cửa sổ, tôi mở cửa để nhìn cho
kỹ: thì ra là cô bạn của Chí. Tôi ngạc nhiên hỏi: 'Sao về sớm
vậy?'
"Cô em xinh đẹp mỉm cười ngây thơ: 'Chí say quá. Đừng lo, tôi đã
vực anh ấy vào giường và đắp chăn cẩn thận. Mai tôi sẽ gọi anh ấy
sau. Good night.'"
Số học bay T-38 ở Mỹ thì gồm có hai anh em 72A là Huỳnh Đình Chí
và Chu Văn Hùng trong khóa 75-05 sau khi đã tốt nghiệp T-37 tại
Sheppard. Khóa T-38 này đã nhập học vào ngày 8/1/74 ở Webb Air
Force Base ở Texas. Khóa gồm có 6 người Việt và 24 người Mỹ. Họ đã
bắt đầu học bay T-38 vào tháng 7/74, và tốt nghiệp bay vào tháng
1/75. Riêng Chu Văn Hùng thì ngoài chứng chỉ mãn khóa ra còn nhận
được thêm một Distinguished Graduate Certificate. Theo lời tờ báo
Prairie Pilot ra ngày 31/1/75, những khóa sinh tốt nghiệp T-38 ở
Mỹ xong sẽ được huấn luyện bay F-5 ở Việt Nam.
Sau
đây là lời Chu Văn Hùng:
"Riêng về nghiệp bay tao chỉ muốn nói đây là cái nghề nếu ai không
yêu thì không nên theo. Bay nhiều thì mệt, không bay thì nhớ, nhớ
lâu thì thèm. Đối với tao, bay phi cụ là một cái môn chơi khó, hấp
dẫn, và hồi hộp nhất, vì mình phải mang chính sinh mạng mình ra
thử lửa. Nó không cho phép mình làm sai một lần nào cả.
"Về việc bay phi cụ, tao đã nghiên cứu rất nhiều tài liệu mà sau
khi về Việt Nam tao chắc chắn phải xài đến vì thời tiết ở đó
thường rất xấu. F-5 là phi cơ khó đáp nhất bởi lý do là cánh nhỏ
nên cần chạm bánh ở vận tốc trên 135 knots. Phi cơ nào cũng có cái
ưu điểm riêng của nó, nhưng nói chung bay là một cảm giác rất cao
độ. Nó làm cho mình vừa mệt vừa sướng."
Sau đây hãy nghe Hoàng Văn Trung kể chuyện “học bay trên đất Mỹ”:
"Song-song với những tháng ngày "được" quân trường huấn-nhục, chúng
tôi dự khóa huấn-luyện quân-sự giai-đoạn một. Đó là lúc cũng đeo
ba-lô, đội nón sắt, đeo dây đạn, bình nước, bò, lết, nhắm, học
cách tháo gỡ và xử-dụng các loại súng thông-dụng, học cách ném
lựu-đạn... Đây là môn tôi ớn nhất. Nói thật tình, nếu tôi có trái
lựu đạn thật trong tay chắc tôi cũng không đủ gan rút chốt!
Các khóa học Anh-văn tại trường sinh-ngữ Không-quân ở Nha-trang là
những tháng ngày êm-ả như thuở học trò. Giám-đốc là Trung-tá Toàn,
anh hay em gì của ông Lê bá Kông thì phải. Huấn-luyện-viên gồm cả
sĩ-quan và hạ-sĩ-quan như: Thượng-sĩ Vàng, Thượng-sĩ Nhan,
Thượng-sĩ Em... Còn sĩ-quan thì nhiều quá, nhớ không hết. Sư-phụ
của tôi là Trung-úy Trỉnh.
Quân-trường Không-quân không phải như những quân-trường khác là
Sinh-viên Sĩ-quan cùng vào và cùng ra trường một ngày. Có những
cái nhiêu-khê rắc-rối xẩy ra trước khi một khóa-sinh được tuyển đi
Mỹ học lái máy bay. Có người bị kẹt ngoài quân-trường với lý-do
hồ-sơ an-ninh không được thông-suốt vì gia-đình có ai đó hình như
không biết rõ được tung-tích. Có người bị kẹt vì lý-do không đủ
điểm Anh-văn.
Đang khi "được" huấn-nhục bầm-dập, đột-nhiên có mười mấy anh chàng
tốt số, giỏi tiếng Anh, có sự-vụ-lệnh gọi về Sài-gòn trình-diện đi
Mỹ dù nhóm đó chưa học bắn một phát súng, chưa biết cây súng là gì
và cây kim kích hỏa dài ngắn ra sao...
Các chàng khác lận-đận ì-ạch học hoài. Có khi bạn cùng khóa đã có
cánh bay, đeo thiếu-úy, bay đánh bom tơi-bời ở chiến-trường rồi,
vậy mà các bạn cùng khóa vẫn đang "hùng-dũng" học Anh-văn, thi
hoài vẫn chưa đủ điểm đi Mỹ.
Tuy tôi chưa phải là vịt đẹt, nhưng vì thời trung-học chỉ học
Pháp-văn nên thi xếp hạng Anh-văn chẳng ra cái thể-thống gì cả.
May nhờ trời, chỉ học có bốn tháng là đủ điểm ECL (English
Comprehension Level) đi Mỹ.
Ngày lên máy bay, chúng tôi mặc bộ vét nỉ xanh của Không-quân, đeo
hai cầu vai vàng rực, phù-hiệu con rồng của Không-quân, dây
biểu-chương màu xanh lá cây choàng qua cả hai chữ Việt-Nam đỏ
tươi, rực-rỡ trên cánh tay áo xanh đậm. Những chiếc khuy to bằng
nhôm sáng bóng, nổi hẳn lên bộ vét xanh của Không-quân.
Chúng tôi đến phi-trường San Francisco lạ nước lạ cái. Tiếng Anh
chỉ biết lõm-bõm vài tiếng đủ để rời Việt-Nam mà thôi. Thấy hai
chữ "rest rooms" tôi cứ ngỡ là phòng nghỉ-ngơi cho hành-khách. Có
đứa vội mua post-card bỏ ngay vào thùng rác gởi cho bồ! Đến đâu
đâu cũng có sĩ-quan Mỹ ra chào hỏi đưa đón. Cái choáng ngộp đầu
tiên của tôi là xa-lộ gì mà to rộng quá xá quà xa! Đi máy bay có
mấy đứa bị ói. Tôi cũng 'lắc-lư con tàu' nhừ-tử, vừa lo sợ
lẩm-bẩm:
"Chết thật! Thế này làm sao mà lái máy bay cho được."
Đến trường sinh-ngữ Lackland làm thủ-tục xong, gặp bà bồi phòng
hỏi:
"Do you have key yet?"
Tôi ngớ ra hỏi thằng bạn:
"Bả hỏi cái gì vậy mày?"
Thằng này nhắc tôi nhưng lại không đủ can-đảm há mồm trả lời. Còn
tôi, sau khi hiểu ra thì rất hăng-hái:
"Dét. Dét. I have it. Thank you."
Bốn tháng sau ngày đó, tôi đủ điểm Anh-văn qua trường bay; còn
thằng con "biếng ăn biếng nói" kẹt lại khóa sau.
Qua trường bay T-41, là loại giống máy bay bà già mà các bạn cùng
khóa của tôi "bị xui" nên "trúng tuyển" học lái khóa 42 ở
Nha-trang.
Những ngày mùa đông năm ấy không thể nào quên: kho xăng Nhà Bè bị
Việt cộng phá-hoại cháy tan-tành; khối OPEC không bán dầu cho Mỹ.
Cả nước Mỹ nhốn-nháo. Một chiếc tàu chở dầu sang Việt Nam viện-trợ
bồi-hoàn theo hiệp-định Paris bị cản-trở ở cảng. Dân Mỹ mua xăng
phải xếp hàng xin thẻ. Bộ-trưởng Không-quân lên đài trấn-an là với
số xăng dự-trữ của Không-quân, dân Mỹ có thể vẫn xài phủ-phê đến
ba, bốn năm nữa.
Chúng tôi không có nước nóng tắm. Trước khi tắm là phải sửa-soạn
trước mền và giường, rồi cùng nhau chạy một, hai, ba, bốn cho nóng
người trước khi ào vào phòng tắm mở nước, chà xà bông, xả, chạy
mải về phòng đắp mền và run lên lập-cập. Tôi vẫn không thể quen
được cái lối tắm chung-chạ kiểu Mỹ như vậy.
Học lái T-41 là giai-đoạn "khốn-khổ" nhất của tôi. Trong khi những
đứa khác vừa lái vừa giỡn, cười đùa, enjoy thì mặt tôi cắt không
còn giọt máu. Hưng, người vẫn lái máy bay vòng vòng hai lần cho
hội chợ Xuân ở San Jose, là bạn cùng khóa với tôi. Khóa T-41 này,
Hưng rất giỏi, được solo đầu. Coi như đậu hạng nhất. Tôi tụt xuống
hạng chót. Cũng may mà còn đậu vớt. Đậu vớt là vì không thể đánh
rớt được chứ cũng không đáng chấm đậu. Ông thầy tôi là phi-công
oai-hùng của thời đệ-nhị thế-chiến với gần 20 ngàn giờ bay. Bay
giỏi kinh-khủng và dậy dở không ai bằng. Sau này, khi tốt-nghiệp
khóa phản-lực A-37 tôi mới thấy rằng tôi đậu khóa T-41 với cái lối
dậy như thế chỉ là nhờ phước-đức ông bà để lại. Không rớt tàu bay
chết đã là may. Mà tôi cũng chán tôi quá: đang bay bốn ngàn bộ thì
tôi tàn-tàn tụt từ-từ xuống còn ba ngàn rưởi rồi lên lại ba ngàn
tám. Kêu đổi hướng qua 270 thì tôi đổi đến 280. Khi cất cánh, dù
thầy đã dậy bao nhiêu lần, chiếc máy bay do tôi điều-khiển vẫn
niểng đầu qua một bên... Phạm lỗi hoài nhưng chưa bao giờ có
thì-giờ nhận thấy lỗi vì thầy đã chụp cần lái, hét ầm lên và sửa
ngay khi lỗi vừa nhen-nhúm. Mà gào thét cho lắm thì thầy tôi vẫn
phải thả tôi solo (đơn phi). Nếu không thả được tôi solo sau khi
đã đánh rớt hai đứa khác thì coi như thầy tôi cũng bị lay-off
luôn.
Lần solo hôm đó thật hãi-hùng làm sao! Bốn lần đáp thì một lần bị
đài đuổi go around vì quá nguy-hiểm. Lần thứ nhì bánh bên trái
chạy lên cỏ. Lần thứ ba, bánh bên phải lăn lên cỏ. Lần thứ tư, xém
chút nữa là lủi vô hàng rào ở đầu phi-trường Hondo nếu tôi không
chịu "cãi lời thầy" mà nâng đầu máy bay lên, tống ga cho con tàu
nấc lên một tiếng kêu ai-oán trước khi rơi đánh phịch một cái bên
kia hàng rào và run-rẩy lết-lết về cuối phi-đạo để nhìn thấy bóng
dáng ông thầy đang thểu-não lủi-thủi đi theo một ông pi-lốt trong
hội-đồng chấm thi vào phòng họp:
"Nó bay yếu như vậy mà sao dám thả solo?"
Sau ngày đó, hình như tôi đã mường-tượng thấy một cái gì kỳ lắm
trong cái kỹ-thuật dạy bay của thầy tôi nhưng chưa cảm thấy rõ
được.
Đau-khổ là như thế mà cái "tánh hào-hoa" của con nhà Không-quân
cũng chẳng bỏ. Tôi quen được rất là tình-cờ một em Mễ tên Julie
Tôi hỏi chuyện và khen em có giọng nói quá truyền-cảm dễ thương.
Thế là hẹn gặp nhau đi chơi. Tôi nhớ nhất là khi đi dạo trong cái
thành lịch-sử Alamo, và dưới gầm cầu bên dòng sông êm-ả. Tôi chưa
kịp ngỏ lời tỏ tình thì đã bị em ghì... ra tay trước. Đàn bà con
gái gì mà... mà... dễ thương quá!
Ngày rời cư-xá Medina đi Wichita Falls học T-37, tôi tìm mọi cách
ra từ-giã Julie. Buổi tối, cầm 100 đô đưa cho thằng bạn, tôi dặn:
"Mày ra PX mua dùm tao cái va-li. Vào phòng tao, gặp cái gì cũng
tộng hết vào. Tao sẽ về trước khi trời sáng."
Nhưng tôi chỉ trở về bốn tiếng đồng-hồ sau khi trời đã sáng chỉ để
kịp nhẩy lên xe buýt rời cư-xá trong tiếng càu-nhàu nhiếc-móc của
thằng bạn:
"Mày chỉ chết vì..."
Tôi hỏi lại:
"Cho mày được chết vì cái đó... mày muốn chết không?"
Khóa chúng tôi chia làm hai. Toán của tôi đi Sheppard, toán kia đi
Webb. Học phản-lực mới chính-thức là vào cuộc chơi. Bay T-41 chỉ
là cho có chút ít khái-niệm về máy bay. Còn lần phản-lực này thì
có quy-củ hơn nhiều. Ôm một đống sách "giáo-khoa" thấy mà
ngao-ngán. Cơn ác-mộng T-41 vẫn ám-ảnh tôi không phút nguôi-ngoai:
"Chắc mình không có khiếu bay bổng quá."
Màn đầu là học nhẩy dù. Tôi lại cảm thấy là số tôi còn may quá nên
đã không nổi hứng đi Nhẩy-dù như từng "ước-nguyện" theo gót ông
anh tôi. Không-quân chỉ là học cách rớt dù xuống đất thôi mà tôi
đã "lạnh" quá rồi nói chi tới từ trong máy bay nhẩy ra.
Sau đó thực-tập bằng cách đeo dù cho xe kéo lên như thả diều rồi
huấn-luyện-viên buông dây. Chiếc dù lên cao khoảng một, hai trăm
feet nhưng hồn phách tôi đã phiêu-diêu đến tận thiên-đàng! Ba lần
té dập xương đủ ba. Từ đó mới biết, không phải dễ để được gọi là
lính Nhẩy-dù.
Lý-thuyết về máy bay, cơ-khí, kỹ-thuật bay, nhào lộn, đối-phó với
các trường-hợp hiểm-nguy và... thực-hành đi sát với nhau như hình
với bóng. Học xong cách lấy tọa-độ, tính đường bay thì chậm lắm là
hôm sau đã lên máy bay thực-tập rồi.
Thi-cử rất gắt-gao. Bất cứ vì lý-do gì, tổng-cộng chỉ được du-di
cho thi-lại-ba-lần cho cả khóa, dù là bài lý-thuyết hay thực-hành
hay là gộp lại. Lần thứ tư phải xách va-li go home. Bye!
Trong lúc nghỉ giữa giờ học là những hình ảnh blonde tóc vàng
óng-ả và... cả 100% núi đồi cây cỏ chập-chùng được chiếu lên màn
ảnh cho khóa-sinh rửa mắt, tỉnh ngủ và "tẩy-não". Các cô thư-ký
trong không-đoàn đang đứng bên ngoài xem và "học ké" chúng tôi,
cũng xem luôn, vừa cười khúc-khích. Đâu có thấy thưa kiện gì là
sexual harassment như bây giờ đâu?
Ông thầy thứ nhất dậy tôi T-37 với phương-pháp giống y ông trước.
Te-tua. Chán-ngán. May quá, ông ta được đổi qua phi-đoàn khác và
tôi được giao cho một ông đại-úy ân-nhân của cả cuộc đời tôi cho
đến bây giờ và mãi-mãi về sau, đại-úy Shetter. Tôi học được ở ông
quá nhiều và nhờ đó mà tôi thoát chết... đói dưới thời Việt Cộng.
Vào cockpit (phòng lái) ông ta chỉ nói với tôi mỗi một câu:
"You are on your own. Do whatever your book tells you to do. Tự
mình lái đi. Theo đúng sách vở."
"Yes. Sir."
Ông thầy chỉ cho tôi phải làm gì, làm gì và như thế nào rồi... mặc
kệ tôi. Hễ bay sai, tôi tự nhận thấy và tự sửa. Cuộc đời bay của
tôi phát lên thấy rõ, như máy bay phản-lực đang vun-vút trên trời.
Khà khà! Ta cũng đâu đến nỗi quá đần! Hai mươi ngày sau đó, tôi
oai-hùng solo trên chiếc phản-lực T-37. Đáp bằng tay mặt cầm stick
và cất cánh bằng tay trái. Vì công-tắc đóng mở thắng gió -speed
brake- của tôi bị hư nên phải nắm cần lái bằng tay trái còn tay
phải thì dùng công-tắc của bên thầy ngồi để rút thắng gió vào, rồi
chụp lại cần lái bằng tay phải vừa lúc máy bay đã lại rời phi-đạo.
Cất cánh đủ ba lần bằng tay trái. Trên thế-giới chắc chưa
khóa-sinh "solo đầu-tiên" nào dám liều-lĩnh cất cánh ba lần bằng
tay trái trong một tình-cảnh như vậy. Trước đó ông thầy tôi đã
biết nhưng cũng chịu chơi nhắm mắt cho học trò liều mạng.
Tôi tự-tin vô cùng. Hăng-hái vì tay tôi đã "phiêu"- feel- được cái
cần lái để xem con tàu đang muốn cái gì. Solo một, solo hai rồi
solo vùng trong một tuần. Cầm con tàu sao bây giờ thấy hứng-khởi
quá. Bây giờ tôi mới nghiệm ra rằng lúc học bay T-41, tôi chẳng
được cho bay gì cả, toàn là thầy giật cần lái của tôi rồi bay hết
cả buổi mà thôi.
Một hôm, vì là một hot stick - khóa-sinh bay giỏi - nên tôi được
phi-đoàn-trưởng chỉ-định lấy con tàu solo cuối-cùng của phi-đoàn.
Tôi rất hãnh-diện để lấy con tàu cuối ngày. Đó là một buổi chiều
với ánh nắng đã ngả bóng ở cuối chân trời. Lúc taxi cho tàu chạy
ra phi-đạo, tôi bắt gặp bóng tôi in nghiêng-nghiêng trên mặt đất
với cái nóc canopy mở cao, lưng hơi khum-khum, cái nón bay, cái
ống dưỡng-khí lủng-lẳng bỏ rời đang lắc-lư theo nhịp nẩy của con
tàu lăn bánh. Trông oai không thể tả! Hai ống phản-lực ngốn gió
vào cuồn-cuộn, rít lên như xé tai. Trông thật giống tấm hình của
một ông pilot A-37 mà bộ tư-lệnh Không-quân dùng để đăng thông-cáo
tuyển khóa-sinh. Cũng vì tấm hình đó mà tôi... lỡ dại đăng lính
vào Không-quân.
"Đào mình thấy cảnh này chắc nó yêu mình còn dữ nữa."
Sau khi bay thật khá, chúng tôi phải bay không-hành -cross
country-xuyên tiểu-bang. Đám bạn bên Webb đã hẹn tôi sang với đủ
món ăn chơi. Tôi đã cùng với hai ông trung-úy, Tullis và Clark,
xin phi-lệnh để cùng Xuân Tây Lai đi Webb và El Paso. Thế mà vì
thời-tiết, không thể qua được El Paso "giao-chiến". Đành phải hạ
cánh ở San Antonio. Cư-xá sĩ-quan chật ních. Toàn là dân bay. Toàn
là áo bay tấp-nập. Chúng tôi ra thuê khách-sạn ngoài phố. May quá,
còn số điện-thoại của Julie trong ví.
Tôi thấy ngường-ngượng. Lúc qua Sheppard đã cố trốn rồi thế mà
bưu-điện Mỹ cũng cố tìm cho được tên tôi theo yêu-cầu của cô nàng
ngoài bìa thư và cho vào hộp thư tôi cái thiệp với những hàng chữ:
"When the bird forgets how to sing, the bee forgets its honey, the
duck forgets how to swim then I will forget you..." và thêm giòng
chữ viết tay của cô nàng: "like you forget me!!!!" Nhận xong, thấy
cảm-động quá nhưng cố kềm lòng... bỏ luôn. Bây giờ đứng trở lại
San Antonio, tôi bồi-hồi và bối-rối không biết có nên kêu không,
hay là nó đã có bồ khác rồi, lạng-quạng bồ nó uýnh bỏ mạng.
Reng. Reng. Reng.
"Hello... Julie?"
"...Yes..."
"Hey. Anh đây, Julie..."
"Tre..eng?... Where are you?"
"Right here in San Antonio. Anh tới thăm được không?"
Cô nàng hối-hả:
"Được. Được. Nhưng mà em không có xe..."
"Thì kêu taxi ra khách-sạn Tropicana đón anh. Anh mặc đồ bay đứng
trong phòng khách nghe, honey."
"OK. OK."
Một tiếng đồng-hồ sau tôi đã ở nhà nàng.
"Anh tệ quá. I hate you. You forgot me."
"Nếu anh quên em tại sao anh lại xin bay qua đây để thăm em."
Cô nàng lộ rõ vẻ cảm-động. Đàn bà sao kỳ vậy? Chỉ thích nghe những
lời như thế. Đúng, sai mặc kệ. Nghe đã lỗ tai là được rồi.
Mười hai giờ đêm, nhất-định phải từ-giã nàng. Tôi biết, nếu nằm
xuống là đi luôn một giấc tới sáng và chắc-chắn sẽ lãnh cái búa tạ
của Không-quân. Trong khi cột lại đôi bốt-đờ-sô, tôi nói Julie gọi
lại chiếc Taxi lúc nãy với tên tài-xế Mad Dog và dúi cho nàng một
nắm tiền để em đi Macy shopping mua quà cho đỡ nhớ anh.
Tôi lau nước mắt cho Julie, cắn nhẹ lên bờ môi mỏng, khen nàng đẹp
vô cùng, đội nghiêng cái nón ca-lô trên đầu rồi đi nhanh ra ngõ,
nhập vào con đường Mathews tối đen. Xa xa chiếc taxi của Mad Dog
đang chiếu đèn trờ tới.
Bốn giờ sáng lấy dù, nai-nịt sẵn-sàng, thuyết-trình cho hai ông
sếp nghe sẽ đi đâu, cao bao nhiêu, hướng nào, đổ xăng, gió xuôi
gió ngược. Bốn giờ rưỡi xách nón bay, lấy tàu ra đầu phi-đạo chờ.
Giọng của đài kiểm-báo vang lên trên vô-tuyến:
"Shep 25 clear to take off. Cất cánh."
Bốn ngọn đèn pha rực sáng dưới hai đôi cánh. Hai cái đèn đỏ xoay
tròn chớp-chớp trên lưng. Hai con tàu nhịp-nhàng dìu nhau trong
tiếng rì-rầm của bốn động-cơ phản-lực. Hai tay tống ga, một cái
gật đầu, bốn chân nhả thắng, các ống phản-lực gầm lên hung-hãn,
đẩy hai con tàu vùn-vụt trên đường băng, lao thẳng vào màn sương
đêm ướt-đẫm của thành-phố San Antonio...
Kéo cần... lên.
Lên.
Hai con tàu ngóc đầu rời phi-đạo.
“Ta là đoàn chim bay trên cao xanh.
“Đi nhìn qua khói những kinh-thành xa.
“Đôi cánh tung-hoành nhịp trên mây xanh.
“Ta là tinh-cầu bay trong đêm trăng...”
Tàu lấy dần cao-độ, êm-ả lướt trên cái đệm không-khí mát lạnh của
buổi bình-minh. Hai bên tai bắt đầu tiếng kêu lụp-bụp, lóc-bóc.
Rải-rác đó đây, vài cụm mây bông gòn lẻ-loi, bềnh-bồng ngái-ngủ
đang dựa-dẫm sưởi ấm bên những tia nắng ban mai vàng nhạt. Chiếc
đèn beacon trên nóc tháp San Antonio Tower cũng còn chớp-chớp.
Những dẫy đèn chia thành-phố ra từng ô thật rõ thật đều. Ở một góc
nào đó của thành-phố này, nàng Julie yêu-kiều của tôi chắc đang
ngủ vùi sau những tiếng đồng-hồ nồng-nàn tâm-sự.
"Em phải ngủ ít nhất đến 11 giờ sáng mới lấy lại sức. Chết rồi!
Không biết nàng có nhớ dẫn con nàng đi học hay không? "
"Ngủ đi mộng vẫn bình thường
“À ơi có tiếng thùy-dương mấy bờ.
“Cây dài bóng xế ngẩn-ngơ.
“Hồn anh đã chín mấy mùa buồn đau..."
Đó là lần cuối-cùng tôi gặp lại Julie, một thiếu-phụ đa-tình của
xứ Mễ Tây Cơ.
Tàu vụt lướt vào một cơn mưa. Chúng tôi quyết-định bay xuyên trong
mây. Chung quanh tối mờ mờ. Một luồng mây theo lỗ gió tràn vào
phòng lái, thẳng tắp. Hai tay đeo găng chợt ướt lạnh. Tàu vẫn
lừ-lừ ngóc đầu lấy cao-độ. Những giọt nước li-ti..., thật li-ti
chảy bắn thành dòng ngược lên đỉnh. Mắt đảo qua ba, bốn dẫy
đồng-hồ phi-cụ. Tất-cả đều trong tình-trạng toàn-hảo. Mở heat. Hơi
nóng tràn vào thật ấm. Mở luôn heat cho cái pitot tube kẻo nó đóng
băng thì đồng-hồ tốc-độ hết chạy. Nhìn qua tàu bên cạnh, Xuân Tây
Lai vẫn đeo sát một bên, thật đầm.
"Thằng này bay formation cũng đẹp quá chứ!"
Pi-lốt đang bay coi oai thật! Nón bay trắng, cái kính visor nâu
đen che trùm đến mặt nạ và ống dưỡng khí. Hai bên vai là những dây
đai của chiếc dù. Lỉnh-kỉnh trước ngực nào là nút, nào là dây, nào
là khóa và móc sắt, nào phẹc-mơ-tuya. Màu cam của
ống-thuốc-nổ-tự-động-mở-dù nổi bật trên nền áo bay xanh xám. Rồi
lại phù-hiệu xanh xanh đỏ đỏ cam cam trước ngực và trên cánh tay
áo. Chết thật! Ai vẽ kiểu cái áo bay như thế này hèn gì "đám con
gái" cứ mãi xếp hàng ngẩn-ngơ trước cổng Phi-Long! Ở Nha-trang,
các nàng ra tay trước, còm-măng sẵn ở cổng Long-vân của trung-tâm
huấn-luyện Không-Quân. Đến là tội-nghiệp cho Không-quân, bị săn
đuổi ráo-riết từ trên trời cho đến khi xuống đất! Có lẽ ngoài
Không-quân chưa ai nghe rằng: "Mỗi đường bay là một cánh hoa rơi."
Thật ra hoa như hồng, như lan, như lây-ơn... ai mà nỡ cho rơi. Còn
hoa cà-chớn thì... cứ tự-do rơi.
Hai mươi ngàn bộ.
Ánh sáng bỗng vụt chan-hòa, rực-rỡ chói-chang như cảnh thiên-đàng.
Trần mây giờ lại trở thành một thảm mây.
Không một ai cả! Chỉ có một tấm thảm mây mênh-mông và hàng ngàn
hàng vạn những ngọn "núi mây" cao thấp chập-chùng, sừng-sững hiện
ra trước khoảng không-gian xanh thăm-thẳm... ngút-ngàn... Hai con
tàu chơi-vơi, bay giữa trời xanh mây xám. Hai con người Việt-Nam
đang lướt trên mây ngàn của đất nước Hoa-kỳ! Ôi Không-gian vô-cùng
vô-tận! Bao-la, hùng-vĩ biết là bao! Tôi bật cười nhớ lại thời
huấn-nhục, các ông anh hành-hạ ước-mơ "pilot" của chúng tôi khi
bắt chúng tôi vừa bò vừa lết vừa ngâm:
"Ôi Không-gian giờ đây ta mới biết.
“Mộng mây trời đã giết chết đời ta."
Tôi bỗng ước-ao có Tề-thiên Đại-thánh cầm thiết-bảng hiện ra cùng
bay với chúng tôi cho vui. Tôi đẩy cần ga vụt lên trước bỏ lại
Xuân Tây Lai sau lưng, lộn ngang hai vòng. Đã quá!
Mây ơi là mây! Tôi muốn ôm mây mà cắn, muốn ngủ trong mây, hít một
hơi mây thật dài thật sâu thật đậm. Tôi muốn nằm vắt-vẻo bềnh-bồng
trong mây, muốn bò trong mây, chạy nhẩy tung-tăng trong mây. Tôi
muốn đem một chút mây về cho cả thế-gian này làm kỷ-niệm của chốn
thiên-thần.
Cầm phản-lực nhào lộn 20 ngàn bộ trên mây! Một ước mơ của bao
người con trai trên thế-giới! Tôi may-mắn và sung-sướng biết là
bao! Ôi các phi-diễn nhào lộn trên không đã từng một thời làm tôi
mơ-tưởng: Cuban eight, clover leaf, loop, roll... Ôi những khi đem
tàu quật ngang quật dọc vẫy-vùng, áp-lực của trọng-lực G và sức
ly-tâm đè chặt cứng lên người..., thật... đã.
Tiếng Morse quen thuộc từ phi-trường vọng lại tai tôi. Tít tít
tít. Tít ta ta tít. Tít tít tít.
Từ 25 ngàn bộ, chúng tôi đã thấy bóng phi-trường Sheppard. Tiếng
Morse vẫn vọng lại đều đều trên vô-tuyến. Tít tít tít. Tít ta ta
tít. Tít tít tít.
"Shep 25 gọi đài kiểm-báo Sheppard."
"Sheppard nghe rõ. Shep 25 xuống 5 ngàn feet. Vòng qua Henrietta.
Hướng 330. Vào đáp phi-đạo 15. Gió hướng 180, 10 knots. Over."
Cúp ga cho tàu trườn xuống. Áp-lực không-khí nặng chình-chịch ở
hai tai. Valsava. Valsava.
"Shep 25 trên Henrietta. Đang vào đáp. Over."
"Shep 25. On course. On glide path. On course. On glide path. Đúng
hướng đáp. Clear to land. Over."
Đáp đôi.
Như hai con đại-bàng đang cong mỏ, quắc mắt, xòe cánh, giương
móng, chúng tôi cùng xuống.
Cùng xuống. Xuống thấp. Thấp.
Flare. Ngóc đầu lên.
Flare... Flare...
Kéo cần...Kéo...kéo...
Cúp ga.
Chạm đất.
Formation touch down.
Beautiful! Hãy cho tôi nghe bài hát của Không-quân!
“Ôi phi-công danh-tiếng muôn đời.
“Nhìn xa... Phi-trường Việt-Nam.
“Không-quân ra đi cánh bay rợp trời.”
Với cái trớn hăng-hái đó, tôi hùng-dũng ngốn hết các chuyến bay
trong chương-trình. Những kỳ thi dồn-dập tới-tấp. Thi academy
lý-thuyết: gió nào mây nào, con ốc, con vít, nút kiểm-soát, cầu
chì nào ở đâu, bị emergency thì phải làm gì...mỗi hai tuần lại
phải thi. Thi bay lúc đầu còn từ từ: căn-bản C-9, contact, rồi đến
lúc gần mãn khóa phải thi gấp nên bay cũng gấp, bay cả thứ bẩy chủ
nhật, một ngày ba chuyến nhào lộn tưng-bừng. Thi phi-cụ
instrument, link, formation (hợp-đoàn), không-hành... Thi đủ bài.
Bay đủ giờ. Ngày gắn cánh, cấp bằng bay đã đến. Khoá-sinh chúng
tôi cảm thấy thật là mãn-nguyện cho cái ước mơ nghe qua tưởng
chừng giản-dị nhưng có lúc hầu như đã quá tầm tay với:
Lễ gắn cánh bay. Quá cảm-động và hào-hùng.
Cám ơn đất nuớc và dân-tộc.
Cám ơn Quân-lực Việt-Nam Cộng-hòa.
Cám ơn quân-chủng Không-quân.
Chúng tôi nghĩ đến nhiệm-vụ trước mắt, nghĩ đến những đàn anh,
những hy-sinh và bây giờ, chúng tôi... những đàn em tiếp bước.
Đến đây là hết phần kể học bay T-37 ở Mỹ của Hoàng Văn Trung. Như
đã kể về Khóa 44 Hoa Tiêu Quan Sát bên trên, có năm người học T-37
tại Phan Rang là Huỳnh Văn Chín, Phạm Văn Hiếu, Lưu Khải Minh, Đỗ
Trọng Nhâm, và Trịnh Vĩnh Thụy.
Trong những anh em SVSQ Phi Hành, có những người đã được chuyển
sang Không Phi Hành trong thời gian huấn luyện. Phần Đinh Văn
Vượng thì du học Mỹ năm 73. Đầu tiên là học Anh văn ở Lackland Air
Force Base, Texas. Sau đó học bay trực thăng ở Fort Rucker,
Alabama. Vượng, Lâm Ngọc Tuấn 72A, và một bạn khóa khác cùng học
bay với một thầy. Tuấn trội nhất trong nhóm nên được thầy thả cho
solo. Chẳng hiểu vì rét quá hay vừa bay vừa nhớ đào mà ngay trong
lần đầu tiên bay thử Tuấn đã rơi trong một rừng cây làm máy bay vỡ
tan tành, may mà chàng chỉ bị gẫy chân. Vì vụ đó mà ông thầy dạy
bay của ba chàng cứ bị lôi ra hội đồng kiểm thảo hoài! Phần Vượng
và anh bạn còn lại hoặc vì không có khiếu bay hoặc vì thầy bị ê
càng nên không dám thả cho solo. Nhờ gặp lúc có tài khóa, Vượng
được chuyển qua học khóa không phi hành về ngành Điều Khiển Không
Chiến ở Tyndall Airforce Base, Florida. Vượng về nước và học điều
chỉnh sĩ quan ở Nha Trang năm 74.
Theo lời Nguyễn Na thì 72A ngoài bạn Vượng ra còn có Na, Tống Văn
Dũng, Trương Văn Hóa, và Nguyễn Văn Chín du học về cùng làm trong
ngành Kiểm Báo. Những bạn này được gọi là Sĩ Quan Điều Không. Họ
làm việc ở đài Kiểm Báo để intercept khi có máy bay lạ vô vùng chứ
không phải là để liên lạc như nhiều người lầm tưởng.
Trong các anh em Không Phi Hành từ đầu thì có bạn Hồ Đắc Tiến.
Theo lời Tiến kể lại thì khi các SVSQ PH qua Ngân Hà thì các SVSQ
KPH ở lại Phi Dũng, và Tiến làm SVSQ cán bộ phụ trách an ninh. Qua
đầu năm 73 thì Tiến được theo học khóa 17 Bảo Trì Phi Cơ. Khóa học
có 10 giai đoạn, mỗi giai đoạn có 3 tuần. Có 13 SVSQ trong khóa 17
BTPC, kể cả các bạn sau.
1. Dương
2. Liêm
3. Nguyễn Đức Long
4. Tài
5. Hồ Đắc Tiến (sau chuyển qua khóa 18)
6. Nguyễn Văn Tiến
7. Từ Phước Thiện (sau chuyển qua khóa 18)
Khóa 17 cùng ở trại Hoàng Yến với khóa 42 HTQS. Trung Úy Hiển,
trước kia làm Thiếu Úy Huấn Luyện Viên Quân Sự Phi Dũng, là Sĩ
Quan Trưởng Trại Hoàng Yến. Ông Hiển là một thầy tu xuất thường
giúp Cha Tuyên Úy làm các thánh lễ trong Trung Tâm Huấn Luyện. Sau
khi các sĩ quan khóa sinh học khóa quan sát viên ở trại Hoàng Yến
ra trường đi rồi thì Tiến làm SVSQ cán bộ Trưởng Phòng Nhân Viên
Hoàng Yến. Trong thời gian này, SVSQ KPH Nguyễn Văn Tiến cùng khóa
17 BTPC đang làm SVSQ Không Đoàn Trưởng coi hết Ngân Hà, Hoàng
Yến, và Thiên Nga. Ngày ngày bạn Nguyễn Văn Tiến phải về bên Ngân
Hà làm việc, dù quân số của bạn này vẫn nằm trong sự cai quản của
Hồ Đắc Tiến ở Hoàng Yến. Bạn Hồ Đắc Tiến là một trong sáu SVSQ ở
trong căn nhà vòm dùng làm phòng trực. Nơi đây là nơi yết thị nhật
lệnh. Những khóa sinh ở Hoàng Yến thỉnh thoảng mới có chào cờ và
tương đối được thoải mái hơn các anh em ở các trại khác.
Bởi ở cùng dưới những căn “nhà vòm” của trại Hoàng Yến, bạn Hồ Đắc
Tiến quen biết nhiều các anh em 42 HTQS và thường đi ăn với Tạ
Viết Đỉnh. Bởi thân quen và muốn che chở cho anh em nên Tiến đã bị
một tai nạn. Một hôm Trần Văn Ứng của 42 HTQS dù về Sài Gòn chơi,
và dù rằng đã biết như vậy, nhưng khi báo cáo quân số Tiến đã báo
cáo đủ. Không may Trung Úy Hiển biết được và đã nhốt Tiến một
tuần. Bởi vì vắng mặt mất một tuần trong ba tuần lễ của Giai Đoạn
6 của khóa học, Thiếu Úy Nghiêm là huấn luyện viên đã thuyên
chuyển Tiến từ khóa 17 qua khóa 18, làm cho Tiến ra trường trễ mất
khoảng ba tuần lễ. Khóa 18 ra trường vào tháng 11/73, tức là
khoảng cùng lúc với khóa 42 HTQS. Sau khi rời Nha Trang, có hai
bạn thuộc khóa 18 đã ra Đà Nẵng. Hồ Đắc Tiến coi cơ xưởng Động Cơ
Phản Lực, và Nguyễn Hữu Danh coi cơ xưởng Trực Thăng.
Trong những người đi học bay ở Mỹ, có ba anh em đã ở lại vì hoàn
cảnh riêng. Nguyễn Duy Bình thì vì nợ nần một cô gái Mỹ còn trong
lứa tuổi trung học. Bùi Mộng Lân và Nguyễn Trọng Tiến thì không
biết vì lý do gì.
Sau này khi đoàn sinh viên sĩ quan dọn qua trại Thiên Nga thì quán
ông bà Tá cũng trung thành dọn theo, và những chiếc thẻ lương vẫn
đều đặn lên nằm ở đó cho đến kỳ lương hàng tháng. Cuối năm 73 trời
hay có giông bão, có đêm mưa bay thốc từng luồng nước từ cửa sổ
bên này sang bên kia. Những bạn chưa có tài khóa đi học bay giờ
này cũng đã thấy ngao ngán với các cuốn sách Anh ngữ 2100, 2200.
Khóa 42 Hoa Tiêu Quan Sát phần vì sắp ra trường phần vì anh em 72A
đã rời Nha Trang đi gần hết nên rất nôn nóng. Mấy thằng phá phách
của Khóa 42 nhiều đêm thức trễ binh xập xám đói bụng đã cậy tủ của
Trần Văn Ứng và Hiệp 72E ra lấy đồ hộp ăn cùng cà phê sữa đặc
uống. Tối tối cứ hễ buồn không có chuyện gì làm thì tôi lại lôi
Quan Đen ra tập hát bản nhạc dịch Đồng Xanh. Câu chót của bài hát
là “Và đã bao năm rồi ta đứng chờ giữa cánh đồng” mà Quan luôn
luôn hát thành “Và đã bao năm rồi ta đứng chờ ai giữa cánh đồng”.
Bởi Quan tự thêm vào một chữ “ai” đó mà lần nào nó hát cũng trật
nhịp. Chỉ có một chút đó mà cho tới khi mãn khóa chia tay ra phi
đoàn nó và tôi sửa vẫn chưa xong.
No comments:
Post a Comment