Ngày thứ 36 : 14-4-1975
Trận chiến Long Khánh (CBU 55)
Ngày 14-4, Chiến đoàn 52 và địa phương quân đã bị thiệt hại và mệt
mỏi vì giao tranh liên tục với quân số đông đảo của Bắc quân. Tại ngã ba Dầu
Giây trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt, Bắc quân tung thêm nhiều sư đoàn có xe
tăng yểm trợ cùng với pháo binh để chọc thủng phòng tuyến của ta tại ngã ba Dầu
Giây do Chiến đoàn 52 bảo vệ. Trong trận đánh cuối cùng này các chiến sĩ ta phải
đương đầu với một lực lượng địch đông gấp mười lần. (Trọng Đạt)
Người lính cuối cùng của trận
chiến
6 giờ chiều ngày 13-4-1975, sau 15 phút Bắc quân bắc loa kêu gọi
đầu hàng tại ngã ba Dầu Giây, Long Khánh, Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Chiến đoàn 52
Bộ binh còn khoảng 50 tay súng, cùng bố trí sau những gốc cây cao su chờ giặc
đến. Tôi liếc nhìn Trung đội 3 của mình còn đúng 12 người. Những đạn đại pháo,
súng cối đủ loại của Bắc quân rót vào. Tiếng lựu đạn nổ chát chúa, tiếng la
thét hãi hùng, tiếng rên siết đau đớn và rồi “tiếng hô sóng vỗ” của biển người.
Tôi gục xuống trên xác một bạn đồng đội, người đầy máu…”
Đó là một trận chiến tồi tệ. Một trận đánh bi thảm mà những người
lính cuối cùng của Tiểu đoàn 1, Chiến đoàn 52 phải chấp nhận, gánh chịu. Chiến
đấu không yểm trợ, không tản thương, không hy vọng, và trong trạng thái hoang
mang, hỗn loạn đến thảm não. Đứng lên một lần cuối cùng trực diện với quân thù,
để rồi ngã xuống như những người khác, hay nếu có một may mắn nào đó. Đời lính,
chết là chuyện thường tình. Vấn đề chỉ là bao giờ đến lượt mình? Trong chiến
tranh, một cuộc chiến được coi là thảm khốc nhất của ta từ 30 năm nay, đã có
biết bao nhiêu những người lính của quân lực VNCH, nếu được chết cách đây 2
năm, trước khi Hiệp định Ba Lê được ký kết, đó là một niềm hãnh diện, chết cho
đất nước, chết cho sự tự do của những người khác. Trong trận chiến cuối cùng
năm 1975, với tôi, nếu bị chết, chỉ là một cái chết tức tưởi, oan khiên. Tôi
tiếp tục cầm súng chiến đấu vì cấp chỉ huy của tôi chưa bỏ chạy, và vì không
muốn thấy 12 người lính còn lại dưới quyền khinh thường mình.
Do đó, bỗng nhiên tôi trở thành “người lính cuối cùng” của Trung
đội 3, Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Chiến đoàn 52, Sư doàn 18 Bộ binh! Đó cũng là
điều thành thật nhất tôi muốn được nói ra, để giải thích một cách lương thiện
rằng tôi không phải là một trung đội trưởng anh hùng.
***
Đầu tháng 4-1975, sau khi các mặt trận Quân đoàn I và Quân đoàn II
lần lượt tan vỡ, chiến tuyến Long Khánh được thiết lập ngày 8-4-1975 để chận
sức tiến của các sư đoàn Bắc Việt trên đà đánh chiếm Sài Gòn. Chiến đoàn 52
được lệnh rời bỏ tuyến đầu của Quân đoàn III, vùng Núi Đốt, phía Nam
Định Quán, dọc theo Quốc lộ 20, đường đi Đà Lạt, di chuyển về ngã ba Dầu Giây.
Phòng tuyến mới của Sư đoàn 18 Bộ binh bây giờ bắt đầu từ Dầu Giây, dọc theo
Quốc lộ 1, khoảng 18 cây số chiều dài, và 7 cây số chiều rộng (trên Quốc lộ 20,
đoạn ngã ba Dầu Giây). Trước khi có lệnh co rút về phòng thủ tuyến, Chiến đoàn
52 với những chi đội thiết giáp tăng cường trong tuần lễ cuối cùng của tháng 3,
1975 lên thay thế vùng trách nhiệm của Trung đoàn 43 Bộ binh, trấn đóng phía
nam quận Định Quán.
Trong những ngày cuối tháng 3, 1975, thật buồn thảm. Từng đoàn
người lếch thếch, lũ lượt gồng gánh đi xuống. Ngược lên, kể cả những chiếc quân
xa chạy vội vã, không có xe cộ nào vượt khỏi địa điểm đóng quân của tiểu đoàn.
Ban đêm từ Núi Đốt, đỉnh cao nhất, phía tây Nam Định Quán khoảng 15 cây số, có
thể quan sát thấy những xe tăng và những đoàn Molotova chở quân của Bắc Việt
chạy khơi khơi trên Quốc lộ 20.
Bộ chỉ huy hành quân chiến đoàn xin phản lực lên đánh, nhưng chỉ
thấy máy bay quan sát gởi tới bay lượn một hồi rồi bay luôn. Lần không yểm cuối
cùng cho tuyến Núi Đốt, Định Quán, 2 trái bom 500 cân Anh rớt trúng xuống Tiểu
đoàn 2, Trung đoàn 43, khiến gần 200 thương vong. Các Tiểu đoàn 2/43 và 1/52 là
những tiểu đoàn ưu tú nhất của Sư đoàn 18 Bộ binh. Những đơn vị đã nổi danh với
những chiến thắng lẫy lừng tại Chiến khu D, và vùng Bến Cát trong năm 1974. Hai
chiếc thiết giáp T54 và PT76 do Tiểu đoàn 1/52 “bắt sống” cách đây mấy tháng đã
được lính Sư đoàn 18 chạy thẳng về dinh Độc Lập, Sài Gòn để Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu chiều chiều …thưởng lãm. Chính các đơn vị này làm cho những người
lính của Sư đoàn 18 ngẩng mặt cao lên, quên đi cái mặc cảm là lính của “Sư đoàn
10 số bù” trước đây, đa số là “lính ma, lính kiểng” và được chỉ huy bởi một ông
tướng tham nhũng nhất quân đội thời đó. Và “rửa mặt” cho tướng Lê Minh Đảo, vị
tư lệnh cuối cùng và anh hùng của Sư đoàn 18 Bộ binh. Vị tiểu đoàn trưởng Tiểu
đoàn 2/43 là một sĩ quan thuộc binh chủng mũ nâu trước đây. Ông nổi tiếng với
lối đánh ào ạt, thần tốc trong đêm tối. Ban ngày nhẩy vào vùng địch, nhưng chỉ
là đánh “nhứ” để quan sát địa thế, và ước lượng tình hình, khả năng thật sự của
địch, tối đến mới là đánh thật. Và đã đánh đêm là phải thắng.
Đó cũng là quy luật của đơn vị này! Hai trái bom 500 cân Anh thả
lầm xuống Tiểu đoàn 2/43 là một bất hạnh, một thiệt hại lớn lao chung cho tất
cả các đơn vị. Vị tiểu đoàn trưởng tài ba, anh hùng nếu còn sống, chắc chắn sẽ
điên loạn; vì ông thương yêu chiến hữu, lo cho những người lính nhiều khi còn
hơn cả cho bản thân ông! Chiến đoàn 52 về tới tuyến mới, ngã ba Dầu Giây tối
ngày 8-4-1975, thì ngay sáng hôm sau, mặt trận Long Khánh đồng loạt bùng nổ cả
3 nơi: Xuân Lộc, ngã ba Dầu Giây và vùng giáp ranh tỉnh Bình Tuy. Cả hai Sư
đoàn 6 và 7 chủ lực quân, các trung đoàn pháo thuộc Sư đoàn 75 Pháo binh Bắc
Việt từ An Lộc kéo về, mở những cuộc tấn công vào các vị trí của quân ta ngay
giữa ban ngày. Chiến thuật của chúng tại mỗi nơi vẫn là tiền pháo, hậu xung và
phục kích chận viện.
Ngày đầu tiên, 10-3-1975, áp lực nặng nề nhất là bắc Xuân Lộc và
vùng núi Chứa Chan, nằm ở phía đông Xuân Lộc chừng 12 cây số, gần với ranh giới
tỉnh Bình Tuy. Lực lượng bên ta, tại Xuân Lộc trong ngày đầu, ngoài những đơn
vị Địa phương quân của tiểu khu Long Khánh, có Trung đoàn 43 và Trung đoàn 48
Bộ binh. Trung đoàn 48 đang nghỉ dưỡng quân tại Long Bình, trước đó đã được
lệnh tới tăng cường cho mặt trận Xuân Lộc, và phòng tuyến phía đông của thị
trấn này. Cuộc chuyển quân thần tốc của Trung đoàn 48 cùng với tinh thần chiến
đấu của đơn vị này, đã làm cho địch quân không thể tràn ngập được phòng tuyến
phía đông Xuân Lộc, trong ngày đầu như chúng đã dự định. Tuyến phòng thủ của
Chiến đoàn 52 dọc theo Quốc lộ 20, khoảng 6 cây số về phía bắc, và 2 cây số về
phiá nam. Khoảng từ Dầu Giây về Xuân Lộc trên Quốc lộ 1 chừng 10 cây số vẫn còn
là một trục lộ an toàn. Bộ chỉ huy chiến đoàn, các pháo đội đại bác 155 ly va
105 ly, các chi đoàn M41 và thiết vận xa M113 trấn đóng tại ấp Nguyễn Thái Học,
cách Dầu Giây 3 cây số. Tiểu đoàn 3/52 đóng chốt trên núi Sóc Lu và những cao
điểm khác, làm thành vòng đai ngoài cùng.
Phòng tuyến của Tiểu đoàn 1/52 ở phía nam Dầu Giây chừng hơn một
cây số. Vùng đóng quân của chiến đoàn trong những ngày cuối, trừ Tiểu đoàn 3,
có nhiệm vụ đóng tiền đồn, đóng chốt trên các đỉnh cao, phía bắc và đông bắc
của Dầu Giây, tất cả đều nằm trong những đồn điền cao su bát ngát. Chiều ngày
11-4-1975, Tiểu đoàn 2/52 được lệnh về tăng cường cho mặt trận Xuân Lộc. Vị sĩ
quan tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2/52, Đại úy Út, với kinh nghiệm chiến trường,
và nổi tiếng bén nhậy trong những ước tính đối với sự việc có thể xẩy ra, nên
ông đã để lại dọc đường 2 đại đội “ngủ đêm” trong vườn cao su. Trận phục kích
tuyệt vời của Tiểu đoàn 2/52 đêm 11-4-1975, tiêu diệt, đốt cháy cả một đoàn xe
chở quân và chở đạn của Bắc quân tại ấùp Cái Răng cách Xuân Lộc 6 cây số về
phiá tây bắc, đã là chiến thắng cuối cùng của Chiến đoàn 52, Sư đoàn 18 Bộ binh
trước khi bị tan hàng!
Những người lính bất hạnh
Đơn vị tôi thuộc Đại đội 2, Tiểu đoàn 1 đóng tại ấp Nguyễn Thái
Học, tuyến ngoài cùng của chiến đoàn, mặt phía nam ngã ba Dầu Giây. Một đại
đội, nhưng chỉ còn khoảng 50 người, quân số chưa được một nửa theo quân số lý
thuyết. Sĩ quan có đúng 2 người, một trung úy đại đội trưởng, và tôi, chỉ huy
Trung đội 3 với 12 tay súng.
Ngay đêm đầu tiên, sau những trận mưa pháo của Bắc quân, những đơn
vị pháo binh của Sư đoàn 75 pháo Bắc Việt từ An Lộc kéo về, “tuyến đầu” ở phía
sau khu vực đóng quân của Chiến đoàn 52 Bộ binh đã co rút lại gần 1 cây số.
Chúng tôi lui về phòng thủ sát xã Dầu Giây và Quốc lộ 1. Vẫn là những rừng cao
su dầy đặc. Tôi nhìn những chiến hữu trong đơn vị, rồi nghĩ đến mình mà lòng
thấy sót sa, đau đớn. Trận chiến cuối cùng này đã vượt khỏi tầm tay của mọi
người. Không còn tin tưởng, hy vọng, hay tính toán gì được nữa. Bị bao vây,
nguy khốn, bị thương chờ chết, bắn hết đạn, hãy tự giải quyết lấy. Những người
gục xuống, đó là cách giải quyết tốt đẹp nhất cho chính họ, và cả những người
còn sống. Pháo cuả địch rót vào chiến tuyến của ta giờ này qua giờ khác, ngày
cũng như đêm. Những đại đội, trung đội đóng chốt, đóng tiền đồn của Tiểu đoàn 3
trên núi Sóc Lu và những cao điểm phía bắc Dầu Giây. Khi còn sử dụng được máy
móc liên lạc, họ gọi kêu cứu liên tục. Các khẩu đại bác từ bộ chỉ huy hành
quâïn của chiến đoàn bắn đi yểm trợ cầm chừng. Cứ điểm nào sắp bị tràn ngập,
nghe tiếng phản lực xé không gian bay tới, hay tiếng gầm thét của chiến xa ào
ạt đến, đó là cứu tinh, là hy vọng cho sự sống được kéo dài thêm của những
người lính bộ binh khốn khổ, bất hạnh. Nhưng khi đã thấy một phản lực cơ nổ
trên không trung, một chiến xa bốc cháy rồi thì niềm hy vọng và cuộc sống của
họ tiêu tan, dẫy chết.
Ngày thứ tư của trận chiến Xuân Lộc, Long Khánh, tuyến ngoài cùng
của chiến đoàn tại mặt trận phía tây Xuân Lộc, cả Tiểu đoàn 3 với quân số hơn
300 người, đóng trên các cao điểm phía bắc Dầu Giây chừng 5 cây số, không còn
liên lạc, vết tích gì nữa. Họ đã chết thật tức tưởi, phi lý và trong uất hận,
đau đớn. Trước khi vào lính, tôi không biết nhiều về đời sống quân đội. Cuộc
đời quân ngũ của tôi cũng thật ngắn ngủi, 2 năm, 2 tháng, 20 ngày. Và tôi chỉ
phục vụ tại một đơn vị, giữ một chức vụ duy nhất là trung đội trưởng Trung đội
3, Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Chiến đoàn 52 Bộ binh. Tôi bị động viên theo học
khóa Sĩ quan Trừ bị 2-73, dù thời gian đó Hiệp định Paris đã được ký kết. Cũng trong thời gian
này, tôi đã mất đi một người bạn thân nhất. Đó là Chuẩn úy Lương Đức Hậu, người
bạn học từ thuở nhỏ, cùng khóa 2-73 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, và cùng một đơn vị
khi ra trường. Với cuộc chiến trong những năm sau cùng, nhiều khi sau trận giao
tranh, một tiểu đoàn tác chiến, với quân số hành quân khoảng 400 người, có khi
bị thiệt hại 1/3 hay nhiều hơn nữa. Và trong trường hợp ấy, ít nhất 50 phần
trăm sĩ quan trung đội trưởng, cấp chuẩn úy, thiếu úy bị hy sinh. Một bức hình
chụp 9 người khi nhập học khóa 2/73 sĩ quan trừ bị Thủ Đức, hình như chỉ có tôi
và một người nữa sống sót.
***
Ngày 8-4-1975, khi trung đội của tôi lui về phòng thủ tại xã Dầu
Giây, với quân số chiến đấu vỏn vẹn còn 12 người, đi nằm tiền đồn, bố trí chờ
địch đến, hay tránh pháo kích, chúng tôi đều dàn hàng ngang, sau những gốc cao
su. Tôi cũng không còn khe khắt bắt anh em binh sĩ đào hố cá nhân như trước kia
nữa. Bởi vì, những hố đó cũng sẽ chẳng ích lợi gì khi Bắc quân tràn đến. Lúc
tôi trúng mảnh pháo của địch, người đầy máu té xuống, tôi đã nghe thấy tiếng
rên la trong đêm tối của trung sĩ Hoan, người trung đội phó gan dạ. Hoan người
gốc Tàu Chợ Lớn, lầm lì, ít nói, nhưng can đảm và tháo vát. Trận đánh tại Bến
Cát cách đây mấy tháng, khi tôi chỉ huy 2 khinh binh bò lên đánh lựu đạn vào
một cái hầm có Việt cộng trú ẩn, một trái B40 của địch “thổi” trúng, “chém” đứt
đôi 2 người lính, Hạ sĩ Lê Sen và binh nhất Hòa. Tôi thoát chết trong gang tấc,
nhờ Hoan kẹp khẩu đại liên vào đùi, đứng bắn che cho tôi bò ngược trở lại. Hạ
sĩ Sen và binh nhất Hòa đều là “những người lính bất hạnh” mà tôi thương mến
họ. Tôi gọi Sen là “người lính gương mẫu” và Hoà là “đứa bất hiếu”. Sen là
người tằn tiện, mực thước, tiền lương hàng tháng thường dành dụm gởi về cho vợ
con. Còn Hòa ăn tiêu hoang phí, rượu chè, nhiều khi bà mẹ già chờ đầu tháng lên
vùng hành quân xin tiền con, Hòa không có, phải trốn mẹ, bị tôi rầy la hoài.
Trận trước, hạ sĩ Sen và Hòa đã ra đi. Hôm nay đến lượt tôi và Hoan! Hoan có
người vợ trẻ mới cưới từ 2 tháng trước, định “dù” về Chợ Lớn thăm vợ, nhưng
thấy trung đội chỉ còn có mình tôi là cấp chỉ huy, nên không nỡ bỏ đi. Tự nhiên
tôi mong ước Hoan sẽ thoát được bàn tay tử thần đêm nay để về thăm vợ anh, dù
đó là lần cuối cùng!
Tôi tỉnh dậy sáng hôm sau, một sĩ quan đã cho biết tôi được cứu
sống nhờ 3 người lính thay nhau dìu về, những người lính của Trung đội 1, trung
đội do cố Thiếu úy Lương Đức Hậu chỉ huy trước đây. Còn 12 quân nhân trong
Trung đội 3 của tôi vĩnh viễn ra đi, không một người nào trở về.
***
Ngày 14-4-1975, phòng tuyến của Chiến đoàn 52 Bộ binh co lại thêm
nữa. Vị tư lệnh mặt trận, đại tá chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 52 ra lệnh tổ
chức phòng tuyến cuối cùng, không lùi thêm nữa. Nhưng cố gắng của ông và của
những người lính Chiến đoàn 52 Bộ binh cũng chỉ giữ được phòng tuyến này thêm
một ngày nữa, rồi tan hàng. 9 giờ đêm 15-4-1975, đại bác Bắc quân bắn sập hầm
chỉ huy của đại tá chiến đoàn trưởng, ông thoát chết nhờ đang ở bên ngoài. Và
lúc đó, ông mới quyết định cho mở đường máu rút lui về hướng Long Bình. Tổng
cộng chỉ có 200 người thoát về được đêm 15-4-1975. Khoảng 1500 quân thuộc Chiến
đoàn 52 Bộ binh bị thiệt hại, bị đánh tan tác trong 6 ngày cuối cùng tại mặt
trận Dầu Giây, Long Khánh.
(Phạm Văn Trung)
Thiếu Úy Phạm Văn Trung, trung đội
trưởng Trung đội 3, Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, v…v…
- : Nguyên tác “Trên phòng tuyến ngã ba Dầu Giây” trích từ tuyển tập “Những uất hận trong trận chiên mất nước 1975” của Phạm Huấn. Viết theo lời tường thuật của Thiếu Úy Phạm Văn Trung
Ngày thứ 37 : 15-4-1975
Trận chiến Long Khánh (BLU 82)
Ngày 15-4, trận chiến rất ác liệt tàn khốc ngay từ lúc mới giao
tranh, Những đợt xung phong biển người của Bắc quân đã tràn ngập các vị trí
chiến đấu của VNCH, địch chọc thủng phòng tuyến và chia cắt các lực lượng ta, 4
xe tăng M48 của ta bị trúng pháo kích, trời tối nên máy bay cũng không yểm trợ
được. Chiến đoàn 52 gồm một trung đoàn thuộc Sư đoàn 18 và các lực lượng tăng
phái đã bị địch quân đánh tan đêm 15-4, chỉ có hai đại đội thoát được.
Phòng tuyến của Chiến đoàn 52 tại ngã ba Dầu Giây bị vỡ đêm
15-4-1975. (Trọng Đạt)
Đài Á châu tự do phỏng vấn Thiếu tướng Lê Minh Đảo.
BLU 82 CBU 55
Mặc Lâm: Vâng thưa thiếu
tướng cho tới nay vẫn còn một câu hỏi đặt ra trước việc nhiều người cho là có hai
trái bom CBU 55 đã thả trong trận Xuân Lộc. Nhưng cũng có người nói là chuyện
này không có. Xin thiếu tướng cho biết vấn đề này như thế nào trong ngày 16-4-1975.
Thiếu tướng Lê Minh Đảo: CBU 55 thì nó hút hết tất cả không khí
oxygen làm người ta chết chứ còn hai trái
bom mà đánh ở đó là BLU 82 đó nặng 14 ngàn pound nói theo kilogram thì nó
chừng 7 tấn. Trái bom đó Hoa Kỳ họ đem qua Việt Nam họ dùng trong khi họ còn ở đây.
Quả bom đó để tại Việt Nam
nhưng không có ngòi nổ vì họ đã đem ngòi nổ về Mỹ.
Và
khi có phái bộ của ông đại tướng Frederick Weyand, ông qua duyệt xét tình hình,
mang hai chiếc tank M48 trên phi cơ Galaxy để làm quà viện trợ cho quân lực
VNCH đồng thời chở các em mồ côi về Mỹ. Chiếc phi cơ này bị rớt ở Tân Sơn Nhất.
Phái bộ này họ đem mấy cái ngòi nổ cho mấy quả bom BLU 82 qua bởi họ thấy cộng
sản nó đi lẹ quá họ cho VNCH cái đó (BLU 82) để cản bước tiến của cộng sản.
Trong mặt trận Xuân Lộc của tôi được họ cho 2 trái.
Xuân Lộc tháng Tư
(…tiếp
với BĐQ ở Xuân Lộc)
Từ trưa tới chiều
chạng vạng, mặt trận yên tĩnh lạ lùng. Khi mặt trời vừa lặn, pháo địch từ nhiều
hướng khác nhau tập trung trên thành phố Xuân Lộc, đủ loại súng nặng, bắn
thẳng, cầu vồng, có điều khác lạ là tất
cả đều là pháo tầm xa (?), pháo địch kéo dài
cỡ một giờ đồng hồ rồi im hơi. Màn đêm buông xuống, tôi nghe
tiếng động cơ chiến xa nổ rộ, rồi nghe tiếng bánh sắt chạm đường đất đá, âm
vang kéo dài từ gần rồi xa dần. Toán
tiền thám BĐQ ngoài vòng đai báo cáo, chiếc T54 bị đứt xích đã được kéo đi và
cả đoàn chiến xa dàn hàng ngang ngoài vòng đai phòng thủ cũng đang rút đi (?). Tôi báo cáo sự việc này cho đại tá Hiếu, ông cũng
ngạc nhiên không hiểu vì lý do gì, địch đang chuẩn bị một cuộc sống mái thì đột nhiên đổi hướng.
Những ngày sau đó
tình hình im ắng như tờ, những con ve sầu trên ngọn điều lộn hột cất tiếng hòa
ca điệu cuối xuân trong khung cảnh thật là tĩnh mịch êm ả đồng quê. Những cây
chuối trên đồi rủ lá. Những sợi khói lam từ mái rạ bay cao. Khoảng ba giờ chiều
ngày 20-4-1975, đại tá Hiếu cho xe ra sân bay đón tôi vào họp hành quân. Ông
rầu rầu,
– Ông Toàn ra lệnh
cho chúng ta bỏ Long Khánh rút về Bà Rịa, ông Đảo vừa được lệnh và cho tôi
biết. Tôi đón chú vào cho chú hay để mà chuẩn bị, chút nữa ông Đảo họp với ông
Toàn xong trở về sẽ có lệnh chi tiết sau.
Tôi ngồi với đại tá
Hiếu một lúc thì có điện thoại của tư lệnh, đại khái ông cho biết, lệnh bỏ Long
Khánh là từ tổng thống Thiệu. Địch không vây Long Khánh nữa mà đi bọc về đánh
Biên Hòa và thủ đô Sài Gòn nên quân ta phải bỏ Xuân Lộc, về bảo vệ Sài Gòn.
Tướng Đảo cực lực phản đối vụ triệt thoái này nhưng tổng thống và tướng Toàn đã
quyết định cắt tiếp ứng, tiếp tế, yểm trợ cho SĐ 18 để ép sư đoàn này thi hành
lệnh lui binh. Tôi được lệnh rút TĐ82 BĐQ về ngã ba Tân Phong trước tám giờ đêm
chờ lệnh.
Tiểu đoàn 82 Biệt
động quân cuốn lều, lấp hầm hố phòng thủ khi đêm rơi.
Đơn vị tôi vừa di
chuyển ngang cổng tòa hành chánh tỉnh Long Khánh thì Đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh
trưởng đã chờ ở đó, đại tá yêu cầu tôi cho Tiểu Đoàn 82 Biệt động quân đi với
đoàn quân của tiểu khu Long Khánh, và ông xin được tháp tùng tôi trong cuộc rút
lui.
Tôi từ chối với lý do: Đại Tá có cả một tiểu khu, đại tá
phải chỉ huy họ, là cấp chỉ huy của họ, đại tá không thể đi theo tôi mà để họ
không người chỉ huy, Đại tá Hiểu ra, cám ơn tôi đã có lời nhắc nhở nhiệm vụ của ông. Chúng tôi
bắt tay từ biệt. Mãi tới năm 1979 tôi mới gặp lại đại tá Phúc trong trại cải tạo Nam Hà A
ngoài Bắc.
Trong cuộc rút binh,
đại tá Phúc đã bị bắt khi đi được nửa đường Xuân Lộc, Bà Rịa và bị giữ trong
trại tù từ ngày đó.
(Vương Mộng Long)
(?!)
Xem Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm của Trần Văn Trà
ở tiết mục Ngày thứ 42: 20-4-1975 - Xuân Lộc triệt thoái.
Ngày thứ 38 : 16-4-1975
Trận Dầu Giây
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn xin lệnh Bộ tổng tham mưu cho ném bom
Daisy Cutter, hồi đó còn gọi là bom CBU để ngăn sức tiến của Bắc quân.
Hôm sau 16-4 vào lúc 11 giờ sáng hai trái bom khổng lồ CBU đã được
thả xuống vị trí đóng quân của Bắc quân cùng với một đoàn xe dài đầy những xe
tăng đại bác trên Quốc lộ 20 từ Định Quán trở xuống.
(Trọng Đạt)
Bên lề
trận chiến
Ngày 17-4-1975 đang kịch chiến tại khu vườn của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ.
Thì đồng thời trong hai ngày 17 và 18-4 Quốc
hội Hoa Kỳ chuẩn thuận dự chi 327 triệu cho phép Tổng thống Gerald Ford được
quyền sử dụng quân
lực di tản người Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Ngày 19-4,
tại Xuân Lộc, tình hình thế trận như dầu sôi lửa bỏng, Sư đoàn 7 và
Sư đoàn 341 liên tục quần nhau với Sư đoàn 18. Thì cũng cùng ngày
19-4, Đô đốc Noel A.
Gayler, tư lệnh quân lực Hoa Kỳ vùng Thái Bình
Dương đến Sài Gòn, trực tiếp
thẩm định tình hình và lượng giá các khả năng di tản. Tại Washington ,
ủy ban đặc nhiệm di tản WSAG (Washington Special Assignment Group) được
thiết lập do Dean Brown thuộc bộ ngoại giao cầm đầu.
Ngày thứ 39 : 17-4-1975
12 ngày trận chiến Xuân Lộc
Ngày 17-4, các đơn vị thuộc 3 sư đoàn 341,
6 và 7 Bắc quân tiếp tục mở các đợt tấn công vào phòng tuyến phía nam thị xã
Xuân Lộc do 2 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 Dù án ngữ.
Những pha cận chiến giữa nhảy dù và Bắc
quân đã diễn ra quanh các vườn cây rộng mênh mông của khu vườn của cố Thống
tướng Lê Văn Tỵ, nằm sát đường rầy xe lửa. Không quân đã thực hiện nhiều phi
tuần F5 và A37 oanh kích vào vị trí đóng quân của một trung đoàn Bắc quân trong
khu vườn này.
Góp nhặt…ghi chép…
Ngày 17-4, ông Martin đề nghị với Kissinger trong một công điện
tối mật để đồng ý cho ông thuyết phục ông Thiệu từ chức:
Nếu quốc hội bỏ phiếu chống viện trợ cho VNCH thì địa vị ông
Thiệu hết rồi. Vì vậy tôi sẽ thuyết phục ông Thiệu từ chức với tính cách là
người bạn. Nếu ông ta không chịu, tôi sẽ đi đến một kết luận vô tư là các tướng
lãnh dưới quyền ông sẽ bắt buộc ông làm chuyện này.
Kissinger đồng ý và cho hay: Tôi
và tổng thống Ford đã chấp thuận từ trước rồi.
(Nguyễn Tiến Hưng)
- : 10 giờ sáng, Đại sứ Graham
Martin vào gặp tổng thống Thiệu và cuộc gặp kéo dài trong tiếng rưỡi đồng hồ về
nhận định của tòa đại sứ Hoa Kỳ đối với tình hình quân sự hiện tại.
Xuân Lộc tháng Tư
Ra tới QL1 tôi phải
cho quân đi hàng một và cách lề trái đường vài chục mét. Khi đến ngã ba Tân
Phong tôi được lệnh ngừng lại chờ lệnh. Trên QL1 những chiếc xe cam nhông chở
đầy ắp lính ngồi hai hàng, xe chạy như bay, chiếc này bám đuôi chiếc khác. Xe
mở đèn pha sáng choang. Có những người lính bộ binh lưng mang nặng ba lô, súng
đeo vai đi sát hai bên đường. Một anh lính bộ binh chạy từ bên
phải sang bên trái đường, bị trượt chân té, văng nón sắt. Chiếc xe cam nhông
chạy qua, đè ngang hai chân anh. Anh lính la hét đau đớn được một câu thì chiếc
xe cam nhông thứ hai đã đè đủ năm chiếc bánh bên trái qua người anh ta. Tôi
nghe rõ tiếng “rốp!” khi bánh xe lăn qua đầu anh. Cái xác dẹp lép của người
lính cách chân tôi khoảng hai mét. Tôi kéo xác anh vào lề đường. Cái căn cước
quân nhân cho tôi biết tên người xấu số là Nguyễn Thành Long, sinh quán Long
An.
Hai bên đường, người
đi như chảy hội, giữa đường, xe cứ nối đuôi nhau.
Tôi chờ khoảng mười
phút thì đại tá Hiếu cho tôi biết, Chuẩn tướng Lê Minh Đảo chọn TĐ82 BĐQ làm lực lượng bảo vệ bộ tư lệnh di
chuyển.
Không lâu sau đó, một chiếc jeep trờ tới, chuẩn tướng Đảo cùng bốn quân
cảnh nhảy xuống, chiếc xe chạy đi ngay.
Chúng tôi xác định nhiệm vụ, trao
đổi tần số rồi lên đường.
(…)
Góp nhặt…ghi chép…
Thực ra thì bản nhận định này đã được Frank Nepp, một chuyên viên
phân tích tình báo (intelligence analyst) của CIA soạn thảo. Trong cuốn Decent Interval, Frank Nepp tiết lộ rằng
ông đã được Polga, giám đốc CIA tại Sài Gòn ra chỉ thị phải:
Soạn
thảo bản nhận định càng đen tối càng tốt chừng đó.
Vì đại sứ Martin sẽ dùng bản nhận định này để thuyết phục ông
Thiệu rằng đã đến lúc ông ta phải ra đi. (Frank Snepp)
Ngày thứ 40: 18-4-1975
12 ngày trận chiến Xuân Lộc
Sáng 18-4, tổng kết
tình hình 3 phần 4 quân số của Trung đoàn 52 BB bị thương. Về thiết giáp, 9 chiến
xa và M113 bị tiêu hủy, hơn một phần tư quân số bị loại ra khỏi vòng chiến đấu.
Chiều 18-4, pháo 130 đã bắt đầu bắn phá căn cứ không quân Biên
Hòa không cho không quân của ta yểm trợ Xuân Lộc.
(Trần Hiếu Đức)
Góp nhặt…ghi chép…
Ngày 18-4, bộ tư lệnh
Quân đòan III chuẩn bị di chuyển từ Biên Hòa về Gò Vấp. Trong khi đó các hoạt động
phối hợp yểm trợ chiến thuật của Sư đoàn 3 KQ cũng bắt đầu suy giảm mạnh. Những
kho dự trử bom đạn tại Biên Hòa, Long Bình, Gò Vấp và thành Tuy Hạ đều cạn kiệt
những loại bom 500, 750, 1.000 lbs, chỉ còn loại bom nhỏ MK81 cở 250 lbs.
Các phi đoàn máy bay của Sư đoàn 3
KQ phân tán về Tân Sơn Nhất và Cần Thơ.
(Trần Hiếu Đức)
Long Khánh
triệt thoái
Đài Á châu tự do
phỏng vấn Thiếu tướng Lê Minh Đảo.
Mặc Lâm: Thưa thiếu tướng với tình hình mà thiếu tướng
vừa diễn tả khiến ông phải rút quân ồ ạt vào ngày 20-4. Có những chi tiết gì quan
trọng trong cuộc rút quân thưa thiếu tướng?
Thiếu tướng Lê Minh Đảo: Mặt trận Xuân Lộc nó ác liệt đẫm
máu ngay vào ngày đầu tiên 8-4-1975 và kéo dài cho tới ngày Sư đoàn 18 rút ra
khỏi trận địa vào ngày 21-4. Tình hình bắt đầu thay đổi khi ngày 16-3 thì mặt
trận Phan Rang bắt đầu bể, một quân đoàn gọi là Quân đoàn 2 Hương Giang của họ
đi ở Quốc lộ 1 xuyên qua Phan Rang xuống Phan Thiết để về Sài Gòn. Họ đi vô
Bình Tuy ngang Xuyên Mộc về Bà Rịa để tấn công Biên Hòa, vì họ không thể đi ngõ
Xuân Lộc nên họ đi ngõ đó. Đồng thời Trần Văn Trà thay đổi kế hoạch đánh phá rất
mạnh vào phi trường Biên Hòa vì họ biết phi trường còn thì sẽ yễm trợ cho chúng
tôi. Mỗi ngày chúng tôi có chừng 50 phi xuất của Biên Hòa yễm trợ cho chúng
tôi, anh em đó đánh rất là ngoạn mục, đánh rất hay, rót bom lên địch thành ra họ
bị thiệt hại rất nhiều vì phi pháo của chúng tôi.
Chiến
đoàn 52 của tôi ở tại ngã ba Dầu Giây họ đánh nhiều ngày hết đạn dược rồi nên
phải xuyên rừng đi thẳng vào rừng, đi xuyên rừng Bình Sơn để về Biên Hòa. Trước
sự uy hiếp trên quân đoàn sợ rằng mặt trận của tôi nằm ở phía trên mà nó đã lọt
được vào bên dưới do Quân đoàn Hương Giang đi từ bên kia nó vòng ngõ tắt về
Biên Hòa cho nên ông trung tướng Toàn ra lệnh phải thay đổi chiến thuật, xin tổng
thống Thiệu và tổng thống chấp nhận là đưa Sư đoàn 18 về giữ Trảng Bom, giữ Quốc lộ 1 về Biên Hòa.
Mặt trận này hồi nào đến giờ do chuẩn tướng Khôi, tư lệnh Lữ đoàn 3 Thiết giáp,
đem chiến đoàn lên giữ mặt trận đó mà không lên tiếp cứu được cho Sư đoàn 18 vì
tụi nó chận ông và ông phải cầm cự ở đó. Thật ra thì ông Toàn cũng muốn giữ lực
lượng này để bảo vệ cho Quân đoàn III nếu cái đoạn này mà Lữ đoàn 3 dính vào mà
nó đánh vô thì ông không có đường mà đỡ, ông ra lệnh cho tôi rút càng sớm
càng tốt.
Góp nhặt…ghi chép…
Trước khi cuộc lui binh khỏi
Xuân Lộc bắt đầu, ngày 18-4, Uỷ ban quốc phòng thượng viện Hoa Kỳ biểu quyết bác bỏ đề nghị viện trợ khẩn cấp cho
VNCH của tổng thống Mỹ, họ chỉ cho tiền
cứu trợ di tản.
Hai hôm sau cuộc lui binh (ngày 21-4), ngày 23-4 tại đại học
Tulane, New Orléans ,
Tổng thống Ford tuyên bố: Đối với Hoa Kỳ
chiến tranh VN đã kết thúc…
(Trần Hiếu Đức)
Ngày thứ 41 : 19-4-1975
12 ngày trận chiến Xuân Lộc
Ngày 19-4, tại Xuân Lộc, tình hình thế trận như dầu sôi lửa bỏng,
Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 liên tục quần nhau với quân ta. Mất Dầu Giây và Quốc lộ
20, Biên Hòa trở thành mục tiêu và Xuân Lộc bị cô lập.
Tư lệnh Quân đoàn III bay trực thăng xuống
Long Khánh, và tất cả nhận được lệnh rút khỏi Xuân Lộc 12 giờ đêm 19-4
theo con đường mòn qua Long Giao-Bình Giả về Phước Tuy để trở về phòng thủ Biên
Hoà. Đội hình lui quân được dự trù như sau:
BTL/SĐ18 BB và BCH/TK/LK đi trên đường
mòn qua Long Giao. Hai bên sườn được bảo vệ bởi lữ đoàn Dù, liên đoàn
BĐQ, và liên đoàn ĐPQ. Đến Bình Gỉa, BCK/TK bị phục kích. Đại Tá Phạm Văn
Phúc, TKT Long Khánh bị bắt.
(Trần Hiếu Đức)
Long Khánh
triệt thoái
Muốn
rút trên con đường này tôi lại ra lệnh lần nữa là không rút ban ngày, rút ban
ngày địch nó biết nên tôi rút ban đêm. Bắt đầu 8 giờ tối, tôi cho rút quân vì
tôi biết họ không bao giờ có thể nghĩ rằng một đại đơn vị của quân lực VNCH mà
rút quân vào ban đêm như thế này hết, họ không bao giờ ngờ! Sáng hôm ông Toàn
ra lệnh tìm cách rút quân thì tôi đã cho lệnh tất cả lữ đoàn dù và một tiểu
đoàn của tôi ở trên núi Thị nã pháo vào các vị trí của họ và mở cuộc tấn công để
làm cho họ thấy rằng chúng tôi bắt đầu phản công để tiêu diệt họ thì họ lo chống
đỡ và nghĩ rằng chúng tôi đánh họ chứ họ không biết khi đó tôi chuẩn bị rút đi.
Rút
quân trong cuộc hành quân này thì rất táo bạo nhưng phải bình tĩnh tối đa, rút
từng đơn vị. Trước hết tôi cho trung đoàn của tôi đi đầu, trung đoàn đó được một
đơn vị pháo lớn tại căn cứ Long Giao của Trung đoàn 48 nằm đó nó yễm trợ. Khi họ
rút được êm rồi thì đơn vị pháo đó rút sâu dưới kia họ bắn ngược lên. Sau đó là
lực lượng cơ giới do ông đại tá tham mưu trưởng hành quân Hứa Yến Lến của tôi ổng
dẫn đi, đem hết tất cả cơ giới nặng, cả xe xác chết của binh sĩ mình trong ngày
hôm đó không đi được bỏ lên xe chở về hết tất cả.
Tôi
chỉ biết là mỗi một ngày tôi chấm tọa độ. Tối tôi chấm tọa độ nơi nào họ đóng
quân, chẳng hạn chỗ này sư đoàn đóng chỗ này trung đoàn đóng, chỗ này là điểm tập
trung quân của quân đoàn còn chỗ này là điểm của một đơn vị sắp sửa xuất phát.
Tại sao tôi biết? Bởi vì trong cuộc chiến thì tới giờ này tôi nói luôn cho biết
về vấn đề gọi là mật mã. Tháo ra hết tất cả mật mã của họ thì chúng tôi có phòng
7 họ gửi bao nhiêu chúng ta mở ra hết tất cả. Buổi chiều khi họ truyền tin thì
chúng tôi bắt được hết. Họ báo tất cả bức điện của họ bằng chữ, ví dụ một lô chữ
azkd...nhưng trong số chữ đó chúng tôi biết đọc ra mật mã, chính chỗ đó nên tôi
đánh trúng họ và họ thiệt hại rất nhiều. Trung tâm phối hợp hỏa lực của tôi chiều
nào cũng kiểm tra cái này hết. Những mục tiêu xa tập trung những đơn vị của họ ở
gần trên Định Quán thì tôi xin quân đoàn cho tôi đánh mục tiêu này.
Tôi
xin đánh vào mục tiêu đó nhưng tôi không biết rõ là quân đoàn đánh bằng quả bom
BLU 82. Sự thiệt hại của địch quân rất cao. Còn một quả nữa thì tôi thấy nó
không ép-phê gì trong trận địa của tôi, trái thứ hai không kết quả bao nhiêu. (Mặc
Lâm-Lê Minh Đảo)
Ngày thứ 42: 20-4-1975
Xuân Lộc triệt thoái
Tù
binh VNCH tại Xuân Lộc
Những trận đánh cuối cùng tại chiến trường
Long Khánh.
Rạng sáng ngày 20-4, hai trung đoàn Bắc quân từ hướng đông-nam Xuân Lộc tiến đánh thẳng vào bộ tư lệnh Sư đoàn 18 và bộ chỉ huy tiểu khu Long Khánh. Bắc quân tập trung lực lượng tại đồn điền Xuân Lộc cách bộ tư lệnh hành quân Sư đoàn 18 khoảng 3 km.
10 giờ sáng cùng ngày 20-4, theo lệnh của bộ tư lệnh Quân đoàn III, bộ tư lệnh Sư đoàn 18 đã có cuộc họp khẩn với các chỉ huy trưởng các đơn vị tăng phái và tiểu khu trưởng Long Khánh. Trong vòng 1 giờ, bộ tư lệnh Sư đoàn 18 phổ biến lệnh mới của bộ tư lệnh Quân đoàn III là toàn bộ lực lượng VNCH triệt thoái khỏi Xuân Lộc.
Rạng sáng ngày 20-4, hai trung đoàn Bắc quân từ hướng đông-nam Xuân Lộc tiến đánh thẳng vào bộ tư lệnh Sư đoàn 18 và bộ chỉ huy tiểu khu Long Khánh. Bắc quân tập trung lực lượng tại đồn điền Xuân Lộc cách bộ tư lệnh hành quân Sư đoàn 18 khoảng 3 km.
10 giờ sáng cùng ngày 20-4, theo lệnh của bộ tư lệnh Quân đoàn III, bộ tư lệnh Sư đoàn 18 đã có cuộc họp khẩn với các chỉ huy trưởng các đơn vị tăng phái và tiểu khu trưởng Long Khánh. Trong vòng 1 giờ, bộ tư lệnh Sư đoàn 18 phổ biến lệnh mới của bộ tư lệnh Quân đoàn III là toàn bộ lực lượng VNCH triệt thoái khỏi Xuân Lộc.
(SQTB K10B/72)
Giã từ vũ khí …
Trong
cuộc rút quân khỏi Xuân Lộc, lộ trình rút quân của lữ đoàn dù dài hơn 40 cây số
đường rừng ven theo liên tỉnh lộ 2 từ Tân Phong đến Long Lễ về Bà Rịa…
Nhưng
có một điều đã làm xót xa các cấp chỉ huy và binh sĩ dù, đó là những chiến sĩ
dù bị thương nặng trong những trận giao tranh trước khi có lệnh rút quân đang
chờ đợi tải thương. Trong một tình thế bất khả kháng, tất cả những người lính
dù đều khóc khi phải cố nén đau thương từ biệt những đồng đội của mình đang bị
trọng thương ở các chiến hào.
Trước
phút lên đường, nhiều người lính dù đã òa lên khóc, ôm lấy đồng đội, máu từ áo
bạn thấm sang áo mình, lần đầu tiên và cũng lần cuối cùng họ phải để bạn bè bị
thương vĩnh viễn ở lại với chiến trường…Họ sửa lại ngay ngắn thế nằm của đồng đội,
vuốt từng đôi mắt sau khi các quân y sĩ, y tá quân y chích cho thương binh những
mủi thuốc an thần. Nón sắt của thương binh được lấy ra, đầu của họ được gối
trên ba lô, súng cá nhân để bên cạnh.
Như
một thước phim bi tráng trong điện ảnh về đề tài chiến tranh, những người lính
dù đứng nghiêm, chào vĩnh biệt đồng đội. Rồi, đoàn quân lên đường. (Vương Hồng Anh)
Bên lề
trận chiến
Henry
Kissinger qua trung gian của Anatoly Dobrynin, đại sứ Liên Xô tại
Washington, gửi
một công điện tối khẩn cho tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô
Leonid Brezhnev. Theo Kissinger, vì quyền lợi lâu dài Xô–Mỹ, vì nguyên tắc tự chế (principle
of restraint), đồng thời để tránh hậu
quả rất tai hại có thể xảy ra cho miền Bắc Việt Nam, Moscow nên hợp tác, giúp sắp xếp
với Hà Nội một thỏa thuận ngầm về ngừng bắn ngắn hạn cho công tác di tản công
dân Hoa Kỳ, cùng một số người Việt Nam có liên hệ đặc biệt với Hoa Kỳ. Đề nghị
được Liên Xô chấp nhận mau lẹ và Hà Nội cũng bắn tiếng không có ý định ngăn cản
việc di tản, hay muốn làm tổn thương thêm danh dự của Hoa Kỳ (Biên
bản cuộc họp ngày 24-4 của Hội đồng an ninh quốc gia Hoa Kỳ, Thư viện Tổng thống
Gerald Ford giải mật năm 2004).
Tòa
đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn cử
Đại tá Harry Summer làm thông tín
viên con thoi thường trực với Hà Nội.
Chỉ có Đại sứ Graham Martin và Phó đại
sứ Wolf Lehmann biết mối liên hệ tay ba Hà Nội, Moscow và Washington. Điều thỏa thuận căn bản đã đạt được là Hà Nội đồng ý
sẽ chờ bên ngoài Sài Gòn cho Hoa Kỳ rút đi trong yên ổn, chỉ với điều kiện
mọi chiến cụ và phương tiện chiến tranh đều phải được để lại toàn bộ nguyên
vẹn.
Tuy
nhiên trong một bức thư trao tay trực
tiếp cho Hà Nội, Hoa Kỳ nhấn mạnh đến
các pháo đài bay B52 ở Thái Lan và lực lượng không quân của Hạm đội 7, đã và đang được đặt trong tình trạng báo động. Bất kỳ
một sự khinh suất nhỏ nào của Hà Nội cũng đều có thể đưa đến một hành động trả đủa khốc
liệt (1). (Larry
Engelmann, sđd, Hoàng Đức Nhã, cố vấn Tổng thống VNCH, dẩn theo Pièrre Darcourt,
Vietnam: Qu’as – tu fait de tes fils, 1977).
(1) Để cụ thể hóa áp lực, ngày 21-4, Hoa
Kỳ giúp Sư đoàn 5 KQ thả tiếp hai quả hai bom CBU 55, xuống vùng Bảo Vinh, Bình Lộc, (Nguyễn
Hiệp)
10 ngày cuối cùng của VNCH
Chủ
Nhật 20-4-1975
Đại
sứ Martin đã đưa cho ông Thiệu bản nhận
định do Frank Nepp viết nguyên văn như sau:
(…)
Với cuộc sụp đổ của các cuộc phòng thủ của quân đội của chính phủ quanh tỉnh lỵ
Xuân Lộc và sự tiếp tục gia tăng tập trung quân đội của Bắc quân trong Vùng 3 chiến
thuật cán cân lực lượng trong vùng chung quanh Sài Gòn hiện nay đã nghiêng về
phía Bắc Việt. Mặc dù chính phủ vẫn còn có thể tăng viện cho một trong những
mục tiêu có thể sẽ bị tấn công như Biên Hòa, Long Bình ở về phía đông Sài Gòn,
các tỉnh Long An, Hậu Nghĩa ở về phía tây hay tỉnh Bình Dương ở về phía bắc,
tuy nhiên lực lượng của chính phủ sẽ không đủ sức mạnh để phòng thủ tất cả các
mục tiêu nầy một cách hữu hiệu. Mặt khác về phía Bắc Việt chỉ trong vòng ba hay
bốn ngày nữa, họ lại có đủ khả năng phóng ra những cuộc hành quân mức nhiều sư
đoàn vào tất cả những mục tiêu này. Như vậy thì chính phủ VNCH sẽ phải đối phó
tình trạng Sài Gòn sẽ bị cô lập và sẽ không còn liên lạc được với bên ngoài chỉ
trong vòng vài tuần lễ và có thể rơi vào tay của các lực lượng Bắc Việt trong vòng 3 hay 4 tuần lễ. (…)
***
Frank
Nepp nói rằng ông muốn viết “chỉ vài tuần lễ” thế nhưng Polgar không muốn như
vậy. Frank Nepp cho biết thêm rằng sau khi ra đi, ông Thiệu vẫn còn để bản nhận
định nầy trên bàn giấy của ông trong dinh Độc Lập. Khi Bắc quân chiếm Sài Gòn, tướng
Văn Tiến Dũng đã lấy được bản nhận định
này và đã cho đăng nguyên văn không sót một chữ trong cuốn sách Đại thắng mùa xuân của ông ta (*** Frank Nepp: sđd, trang 382).
(Trần
Đông Phong)
Quân sử ngoại truyện
(qua “Xuân
Lộc tháng Tư” của VMLong với…Họ án binh chờ lệnh? có thể vì lý do dưới đây).
Theo
Thượng tướng Trần Văn Trà, tình hình lúc đó khiến cho đồng chí Văn Tiến Dũng và
cả anh Lê Đức Thọ hết sức lo lắng. Vì Quân đoàn 1 đang được điều động từ miền Bắc
vào. Quân đoàn 2 (Lê Trọng Tấn) vừa hành quân vừa tác chiến dọc theo bờ biển.
Tướng Trà viết:
“Có
đơn vị vào tới, nhưng đạn dược chưa tới, pháo
chỉ còn hai viên. Có xe tăng đến nơi nhưng xăng dầu hết, hậu cần vùi đầu vơi công việc. (*** Kết thúc cuộc chiến
tranh 30 năm – trang 258)
Ngày
18-4-1075, trong Điện sô 07, ông Lê Duẩn viết: Tôi đã bàn với anh Văn (Võ Nguyên Giáp), nhận thấy cần
chuẩn bị mấy ngày nữa, đến khi phần lớn lực lượng của Quân đoàn 3 và Quân
đoàn 1 đến nơi sẽ bắt đầu cuộc tấn công lớn. Chưa nên làm ngay bây giờ. (*** Kết
thúc cuộc chiến tranh 30 năm – trang 261)
Thế
nhưng rạng sáng ngày 21-4 (1a). các tuyến phòng thủ của Sài Gòn tại Xuân Lộc sụp
đổ. Vì tướng tư lệnh Lê Minh Đảo …”triệt thoái” khỏi thành phố.
(Kết
thúc cuộc chiến tranh 30 năm - Trần Văn Trà)
Ngày thứ 43 : 21-4-1975
Sài Gòn thay đổi nhân sự (2)
Sáng ngày 21-4, trong khi cuộc rút quân
của lực lượng VNCH đang triệt thoái khỏi Xuân Lộc trên Quốc lộ 2, thì tại Sài
Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã triệu tập Hội đồng an ninh quốc gia với sự
tham dự của Phó tổng thống Trần Văn Hương, v…v…
Theo hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên,
trong cuộc họp này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã thông báo quyết định từ chức
và trao quyền lại cho Phó tổng thống Trần Văn Hương.
7 giờ 30 ngày 21-4 (1a), lễ bàn giao chức vụ tổng thống đã diễn
ra tại dinh Độc Lập.
(SQTB K10B/72)
Góp nhặt…ghi chép…
Ngày
29-4-1975, mặc dù rất bận rộn trong việc di tản, đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin cũng
đến tư dinh đường Công Lý với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp. Đại khái đại
sứ nói:
Thưa
tổng thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhân danh chính phủ Hoa Kỳ,
chúng tôi đến mời tổng thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào
với phương tiện nào mà tổng thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho
ngài một đời sống xứng đáng với cương vị tổng thống cho đến ngày trăm tuổi già.
Cụ
Trần Văn Hương mỉm cười trả lời :
Thưa
ngài đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến nỗi như vậy,
Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương,
tôi rất cám ơn ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi
cũng dư biết cộng sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống
đầu dân chúng miền Nam .
Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia xẻ với
họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước.
Cám ơn ông đại sứ đã đến viếng thăm tôi.
Khi nghe câu “Les États-Unis ont aussi leur part de
responsabilités” (Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó), đại sứ Martin giật
mình nhìn trân trân cụ Trần Văn Hương.
(Trần Đông Phong)
- : Trước đó vào tháng
4-1975 khi Nam Vang sụp đổ, Thủ tướng Sirik Matak cũng được Đại sứ Hoa Kỳ John
Gunther Dean mời di tản nhưng ông Sirik Matak đã từ chối qua một lá thư trách
Hoa Kỳ đã nhẫn tâm bỏ rơi dân tộc Cao Miên. Ông viết: Tôi chỉ ân hận một điều
vì quá tin vào người Hoa Kỳ… Thủ tướng Sirik Matak chọn ở lại vì ông quan niệm đã
sinh ra thì sẽ chết một ngày nào đó. Ngày 17-4-1975, ông đã chết vì vì bàn tay
đẫm máu của Khờ Me đỏ.
- : Thủ tướng Sirik Matak
bị Khờ Me đỏ chặt đầu tại vận động trường Nam Vang ngay ngày đầu tiên Cao Miên
bị sụp đổ. Tuy nhiên theo Henry Kissinger thì ông bị bắn vào bụng. Sau đó ông bị
bỏ mặc cho máu chảy, bị bỏ mặc đến chết ròng rã trong 3 ngày.
- : Cụ Trần Văn Hương mất ngày 27-1-1982 tại Sài Gòn.
(Wikipedia)
10 ngày cuối cùng của VNCH
Thứ
Hai 21-04.1975
Sau
đêm suy nghĩ, trưa ngày hôm sau, thứ hai 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
mời Phó tổng thống Trần Văn Hương và Đại tướng Trần Thiện Khiêm, cựu thủ tướng,
đến dinh Độc Lập và thông báo với họ rằng ông sẽ từ chức. Tổng thống Thiệu kể
lại cho hai nhân vật này cuộc hội kiến với đại sứ Pháp và đại sứ Hoa Kỳ ngày
hôm trước và nhấn mạnh rằng cả hai ông đại sứ đều không chính thức khuyến cáo ông từ chức, tuy nhiên vì tình hình
quân sự đã trở nên vô vọng và ông cảm thấy rằng ông không còn có thể phục vụ
đất nước hữu hiệu được nữa nên ông phải từ chức. tổng thống Thiệu nói với cụ
Trần Văn Hương và ông Trần Thiện Khiêm rằng ông muốn bảo tồn tính hợp pháp của
chế độ VNCH và do đó ông yêu cầu Phó tổng thống Trần Văn Hương nhận lãnh chức
vụ Tổng thống VNCH để cứu vãn tình thế.
(…)
Di tản
Ngày 21-4, trong khi lực lượng VNCH đang triệt thoái
khỏi Xuân Lộc thì từ ngày 21 đến 28-4-1975, Mỹ đã bốc ra
khỏi Sài Gòn qua 170 chuyến bay bằng phi cơ vận tải C130, C134 và C141 đưa tới
căn cứ không quân Clark ở Phi Luật Tân, một số nhỏ được đưa thẳng tới Guam.
Nhân viên của các đài phát thanh bí mật, được chở ra đảo Phú Quốc, rồi ít ngày
sau được bốc đi.
Trong
Chiến dịch Frequent Wind ngày 29-4 trực thăng vận, từ toà đại sứ bốc 978 người
Mỹ, 1.120 người Việt cùng công dân các nước khác. Từ DAO bốc 395 người Mỹ và
4.475 người tị nạn. Ngoài những chuyến trực thăng do Mỹ bốc, còn rất nhiều phi
công đã đi một mình hoặc chở người thân bay thẳng ra Đệ thất hạm đội.
Trong
4 ngày cuối tháng 4, Mỹ đã xử dụng 45 tầu hải quân, từ mẫu hạm, chiến hạm, tầu
vận tải vớt tổng cộng 40.000 người. Tổng cộng cả tháng 4, Đệ thất hạm đội vớt
khoảng 130.000 người. Lúc đầu, họ được cho tạm trú tại đảo Grande Island
ở Subic Bay .
Ngày
28-4, quốc hội Mỹ chính thức cho phép người tị nạn vào Mỹ tại 3 nơi:
Camp Pendleton, CA ;
Eglin Air Force Base, FL; Fort Chaffee ,
Arkansas . Sau mở thêm Camp Indiantown Gap , PA.
vào đầu tháng 6.
(Đinh
Từ Thức)
10 ngày cuối cùng của VNCH
Frank
Snepp, tiết lộ rằng khi ông Thiệu nói chuyện với Phó tổng thống Trần Văn Hương
và Đại tướng Trần Thiện Khiêm (hay Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn) tại dinh Độc Lập
thì bộ phận nghe lén của CIA ở tòa đại sứ Mỹ nghe hết không sót một lời nào.
Trùm
CIA tại Sài Gòn là Thomas Polga sau đó đã ra lệnh cho phụ tá của ông là Thiếu tướng
Charles Timmes đến gặp Đại tướng Dương Văn Minh ngay chiều hôm đó và hỏi thẳng
ông Dương Văn Minh rằng nếu người Mỹ có
cách loại ông Hương ra khỏi ghế tổng thống thì ông Minh có sẵn lòng đảm nhận
chức vụ này để điều đình với Việt cộng hay không? Đại Tướng Minh nhận lời,
và tin tưởng rằng ông có thể thuyết phục “phe bên kia”. Ông nói với tướng
Timmes ông cần gởi ngay một đại diện của ông sang Paris để thương thuyết với phe bên kia.
Nghe
ông Minh nói như vậy, tướng Timmes liến mở cặp lấy ngay một ngàn đô la (1) tiền mặt trao cho ông Minh để mua vé máy bay cho
người đại diện này.
(…)
(1) Frank
Snepp chú thích là ông Minh không hề gửi người nào sang Paris, không dùng đến
số tiền này và cũng không trả lại cho người Mỹ. Frank Snepp cũng cho biết thêm
là đại sứ Martin không hề hay biết gì về việc CIA cho người tiếp xúc với Dương
Văn Minh trước khi ông Thiệu từ chức. (*** Frank Snepp: sđd, trang 395)
Những ngày cuối VNCH
Theo
hồi ký của ông Trần Văn Đôn, tòa đại sứ Pháp đã nhẩy vào chính trường Việt Nam .
Cố vấn chính trị của sứ quán Pháp là ông Brochand đã gặp ông Đôn cho biết sứ
quán Pháp có liên lạc với Hà Nội và nhấn mạnh: Nếu có thương thuyết thì Hà Nội
chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh mà thôi. 10 giờ tối ngày 22-4, ông Đôn
gặp ông Minh cho hay Hà Nội đang chờ ông nắm quyền rồi sẽ thương thuyết.
Ông
Minh chưa tiếp xúc với ông Trần Văn Hương vì vị tân tổng thống không thích ông Minh.
Ông
Minh đề nghị ông Đôn đi gặp đại sứ Mỹ Martin để thuyết phục ông Hương. Rời nhà
ông Minh, ngay trong đêm 22-4, ông Đôn đã đến tư gia đại sứ Martin dù đã gần 12
giờ khuya. Sau đó, ông Đôn trao đổi với ông Marin về ý kiến của ông Minh và yêu
cầu đại sứ Martin đề nghị ông Hương giao quyền cho ông Minh đứng ra thương thuyết
với Hà Nội.
(Vương Hồng Anh)
10 ngày cuối cùng của VNCH
Thứ
Hai 21-04-1975
Lễ
bàn giao đang diễn ra tại dinh Độc Lập, các đơn vị còn lại của Sư đoàn 18 bắt
đầu di tản ra khỏi thị trấn Xuân Lộc sau khi đã chiến đấu vô cùng anh dũng
chống lại một lực lượng chính quy Bắc Việt đông gấp năm lần trong hơn hai tuần
lễ. Khi cụ Trần Văn Hương nhậm chức tổng thống thì Bắc quân đã tiến về tới gần Biên
Hòa và bộ máy của cơ quan tình báo Mỹ CIA cùng tình báo của Pháp, cũng như đại
sứ là ông Jean-Marie Mérillon đã bắt đầu hoạt động ráo riết để đưa ông Dương
Văn Minh lên thay thế ông Trần Văn Hương nhằm thương thuyết với Hà Nội.
Trong
khi đó thì từ Hà Nội, ban bí thư đảng đã gửi điện văn số 316-TT/TW ngày
21-4-1975 cho tất cả các chi bộ đảng chỉ thị về việc chọn lựa cán bộ để tiếp
thu Sài Gòn và các tỉnh miền Nam. Chỉ thị nầy nói rằng ưu tiên dành cho các cán
bộ quê ở miến Nam ,
nếu trường hợp thiếu thì mới dùng cán bộ miền Bắc. Chỉ thị nầy do Lê Văn Lương,
ủy viên bộ chính trị, trưởng ban tổ chức đảng ký tên. (*** Văn kiện đảng: trang 291-293)
(…)
Ngày thứ 44 : 22-4-1975
Long Khánh hoàn tất cuộc triệt thoái
Theo kế hoạch, Lữ đoàn 1 Dù vẫn tiếp tục
giao chiến và đánh bật Bắc quân ra khỏi các vị trí trọng điểm trong thị xã và
là lực lượng đoạn hậu sẽ rút đi sau cùng. Cánh quân của Sư đoàn 18 rút đi tương
đối an toàn. Còn cánh quân do Đại tá Phạm Văn Phúc, tỉnh trưởng Long Khánh chỉ
huy đã bị Bắc quân chận đánh ở liên tỉnh lộ 2.
(Phạm Huấn)
- : Trong
hồi ký: Cuộc hành trình 10 ngàn ngày
của Hoàng Cầm, tướng chỉ huy trận tấn công Xuân Lộc viết: “…sau 3 ngày chiến
đấu, Sư 341 thương vong 1.200 chiến sĩ, Sư 7 thương vong 300 chiến sĩ…”
Nhân ngày 30-4-2010,
BBC phỏng vấn Nguyễn Văn Thái, trung tướng, nguyên phó chính ủy Sư đoàn 7. Về
trận Xuân Lộc, ông ta đưa ra con số lính Bắc Việt tử thương là 4.000 người. Sau
35 năm thì tay tướng này có vẻ thành thật hơn trong những con số.
Và, “… trận Xuân Lộc
diễn ra 12 ngày đêm ta đã tiêu diệt 2.056 tên địch” (Chiến thắng Xuân Lộc- Long
Khánh). Đó là con số tử vong của binh sĩ thuộc VNCH.
(Nhớ
lại trận chiến Xuân Lộc - Hoàng
Định Nam)
- : Xuân Lộc thất thủ sau 2 tuần lễ chống chọi với Bắc quân, chiến trận này đã làm trì hoãn Chiến dịch Hồ Chí Minh của
quân Bắc Việt ít nhất 2 tuần.
10 ngày cuối cùng của VNCH
Thứ
Ba 22-04-1975
Tổng thống Trần Văn Hương cho phép thả bom CBU ở
Xuân Lộc.
Ngay
sau khi cụ Trần Văn Hương nhận chức tổng thống VNCH, trong ngày 22-4, Trung
tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân đoàn III đã yêu cầu Đại tướng Cao Văn Viên
xin Hoa Kỳ yểm trợ một phi vụ B52 dội bom xuống khu vực chung quanh Xuân Lộc,
nhưng tướng Viên biết rõ người Mỹ không thể nào đáp ứng được điều đó cho nên
ông từ chối.
Tuy
nhiên trước đó mấy tuần, Đại tướng Federick Weyand và phụ tá bộ trưởng quốc phòng
Hoa Kỳ Von Marbod đã xoay xở đưa sang Việt Nam mấy trái bom CBU. Bộ Tổng tham
mưu đề nghị lên Tổng thống Trần Văn Hương xin xử dụng loại bom nầy ở Xuân Lộc
để ngăn chận sức tiến quân của Bắc Việt và chính
Tổng thống Trần Văn Hương đã
chấp thuận cho phép Không quân VNCH thả những trái bom này.
12
ngày sau khi đã anh dũng chống lại nhiều đợt tấn công của Bắc Việt, Sư đoàn 18 rút
khỏi Xuân Lộc. Các nhà báo ngoại quốc đã khen ngợi cuộc rút quân nầy là đã
“được hoạch định và thi hành rất hay” và các đơn vị nầy về đến Biên Hòa chỉ bị
thiệt hại chừng 30% quân số.
(Trần
Đông Phong)
Góp nhặt…ghi chép…
Cuộc họp tại Bộ tổng tham mưu 6 giờ chiều
ngày 22-4-1975, với chức danh là tổng trưởng quốc phòng, cựu Trung tướng Trần
Văn Đôn đã họp các tướng lĩnh tại văn phòng tổng tham mưu trưởng. Tại buổi họp
này, tướng Đôn nói: Dù có thương thuyết để đình chiến, chúng ta cũng cố giữ những
gì chúng ta có. Vị tổng trưởng quốc phòng yêu cầu đại tướng Viên, trung tướng
Toàn sắp xếp lại tuyến phòng thủ để bảo vệ Sài Gòn. Cũng tại cuộc họp này, đại
tướng Viên đã báo cáo tình hình chiến sự và khả năng phòng ngự của quân lực
VNCH tại khu vực vòng đai thủ đô và khu vực các tỉnh lân cận.
(Mường Giang)
10 ngày cuối cùng của VNCH
Thứ
Ba 22-04-1975
Trái
bom CBU được thả xuống ngay trên đầu bộ tư lệnh Sư đoàn 341 của quân Bắc Việt
lúc đó đang trú đóng ở 6 cây số về phía tây-bắc thành phố Xuân Lộc khiến cho cả
ba bốn trăm bộ đội bị tử thương. Đài phát thanh Hà Nội ngay sau đó đã la lối tố
cáo rằng Hoa Kỳ và VNCH đã xử dụng loại vũ khí hóa vi quang
Theo
Frank Snepp thì dù có sự phản đối mạnh mẽ nói trên, không quân Hoa Kỳ cũng còn
trợ giúp bằng cách dùng phi cơ thả xuống vùng do Bắc quân kiểm soát quanh thị
trấn Xuân Lộc bom Daisy Cutters, gây ra nhiều thiệt hại nặng nề cho Bắc quân.
(Sau 1975, họ tìm được 3 trái bom BLU 82 chưa xử dụng và cho triển lãm tại Sài
Gòn).
Mặc
dù có bom CBU nhưng một sư đoàn không thể nào chống cự được với một lực lượng
địch đông gấp bội, các đơn vị cuối cùng của Sư đoàn 18 đã rút khỏi Xuân Lộc.
(…)
Sài Gòn thất thủ
Sau khi rút quân từ miền Trung,
quân đội VNCH sẽ tập trung để tạo thành tuyến phòng thủ Sài Gòn. Trước đó, Hà Nội đã dốc hết
toàn lực để sớm đánh chiếm Sài Gòn bằng cách đưa thêm quân số của Quân đoàn 2
vượt qua vĩ tuyến 17 để đột nhập Quảng Trị và Huế. Nói chung là Hà Nội đã rót hết
lực lượng chiến đấu vào miền Nam
với tổng cộng 20 sư đoàn lúc đó đang trên đường Nam tiến. Kết quả là phía miền
Nam
đã từ từ mất Ban Mê Thuột, Đà Nẵng và các khu vực chung quanh Sài Gòn cũng lần
lượt bị rơi vào vòng kiểm soát của quân Bắc Việt.
Lúc này, tổng tham mưu chỉ huy
quân Bắc Việt là tướng Văn Tiến Dũng đã huy động tất cả 5 quân đoàn gồm 15 sư
đoàn với quân số khoảng gần 200 ngàn để chọc thủng những tuyến phòng thủ vòng
đai cuối cùng hầu tiến chiếm Sài Gòn.
Dọc theo Quốc lộ 13, cách Sài
Gòn khoảng 50 km về hướng bắc là căn cứ Lai Khê do Sư đoàn 5 VNCH trấn giữ. Đây
là một trong năm sư đoàn được phối trí theo thế chiến lược bảo vệ vòng đai thủ
đô Sài Gòn. Sư đoàn 5 tan vỡ và vị tư lệnh sư đoàn là tướng Lê Nguyên Vỹ đã tự
kết liễu vận mạng bằng cái chết hiên ngang, bất khuất. Mặt khác, tại cứ địa Củ
Chi cách Sài Gòn khoảng 30 km về hướng tây bắc, Sư đoàn 25 của VNCH cũng bị tấn
công dữ dội và ngã gục trước Quân đoàn 3 Bắc Việt. tư lệnh sư đoàn là tướng Lý
Tòng Bá vì muốn bảo vệ sinh mạng binh sĩ nên đã chịu hàng và bị bắt làm tù
binh.
Ngày 30-4-1975, Sài Gòn đã phải
hứng chịu những áp lực nặng nề trước sức tấn công mãnh liệt của 4 quân đoàn Bắc
quân, lực lượng lại quá ít so với quân số hùng hậu của quân Bắc Việt,
(The Fall Of Sai Gon - Komori
Yoshihisa)
Quân đoàn 1 và 4 tại Vùng 3 chiến thuật
Sài Gòn lập tuyến phòng thủ vì:
Quân
đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng) đang trên đường kéo tới Sài Gòn:
Các Sư
đoàn bộ binh 312, 390, Sư đoàn phòng không 367, Lữ đoàn 202 tăng thiết giáp, Trung
đoàn pháo binh 45, Lữ đoàn công binh 299, trung đoàn thông tin.
Quân
đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long) đang từ Xuân Lộc kéo xuống:
Các Sư
đoàn bộ binh 5, 7, 9, các Trung đoàn pháo binh 24, Trung đoàn đặc công 429,
Trung đoàn phòng không 71, Trung đoàn công binh 25, Trung đoàn 26 tăng thiết
giáp.
- : Quân
đoàn này trước khi đánh Xuân Lộc có tổng quân số 35.112 người, trong đó, quân số
trực tiếp chiến đấu 29.034 người.
- : Tổng số lực lương chính qui Bắc Việt bao vây
Sai Gòn gồm 4 quân đoàn và Đoàn 232
(tương đương một quân đoàn).
Phòng không nòng dài Hoả tiễn Sam
- : Với 5 quân đoàn, số đại pháo 130 ly
khoảng 400 khẩu. Không kể xe
kéo pháo, cối từ 61 đến 120 ly, pháo cao xạ nòng dài, nòng ngắn từ 37 đến
57 ly, hỏa tiễn H12, hoả tiễn Sam.
Ngày thứ 45 : 23-4-1975
Sài Gòn lập tuyến phòng thủ
Ngày 23-4, Sư đoàn 18 sau khi rút về được bộ tư lệnh Quân đoàn
III cho nghỉ dưỡng quân hai ngày tại Long Bình, sau đó các đơn vị được điều động
tăng cường phòng thủ khu vực đông-nam
Biên Hòa và mặt đông Sài Gòn, kéo dài từ kho đạn Long Bình đến kho đạn thành
Tuy Hạ.
Lữ đoàn 1 Dù được bố trí giữ Phước Tuy, bảo vệ Quốc lộ 15 từ Long
Thành về Bà Rịa, là lực lượng tiếp ứng Vũng Tàu khi thành phố này bị tấn công.
Với kế hoạch phối trí của bộ tư lệnh Quân đoàn III để bảo vệ Sài Gòn, kể từ
sáng 22-4, phòng tuyến án ngữ phía bắc và phía đông được thành hình với tuyến Long
Thành-Phước Tuy. Lực lượng chính tại phòng tuyến này có Sư đoàn 18 Bộ binh, Lữ
đoàn 1 Dù, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ và Lữ đoàn 468, 147 và 258 Thủy quân lục chiến là
lực lượng bảo vệ phía bắc của phi trường Biên Hòa.
(Phạm Bá Hoa)
10 ngày cuối cùng của VNCH
Thứ
Tư 23-04-1975
Tổng thống Trần Văn Hương cử Chuẩn tướng Phan Hòa
Hiệp đi Hà Nội.
Trong Decent Interval, Frank Snepp kể
lại….
Trong khi quân đội Bắc Việt đang chuẩn bị tấn công Sài
Gòn thì ông tổng thống già Trần Văn Hương cũng tìm cách tiếp xúc kín với phái
đoàn Bắc Việt tại Tân Sơn Nhất và ông đề nghị gửi một người trung gian đi Hà
Nội để thảo luận ngưng bắn. Đề nghị của ông Hương bị Hà Nội thẳng tay bác bỏ.
(*** 141: Frank Snepp: sách trang 433)
Tác
giả của bộ The Vietnam
Experience cũng có đề cập đến
chuyện này như sau:
Ông Hương không tin việc Hà Nội sẵn sàng chịu
thương thuyết với Dương Văn Minh. Ông nói rằng tôi chỉ tin vào việc đó sau khi
tôi có đủ bằng chứng. Ông Huơng đưa ra một đề nghị hoà bình của ông, đó là đề
nghị một cuộc ngưng bắn tức khắc và thiết lập một Hội đồng quốc gia hoà giải,
loan báo việc giải nhiệm chính phủ của ông Nguyễn Bá Cẩn mới được thành lập
trong 9 ngày và đề nghị gửi Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp, tổng trưởng thông tin
trong nội các Nguyễn Bá Cẩn làm đặc sứ đại diện cho miền Nam đi Hà Nội. Bắc
Việt bác bỏ ngay cả ba đề nghị này một cách phách lối (contemlptuously), nhất
là đề nghị về ngưng bắn. (*** 143: Thevietnam Experence. sđd,
trang 142)
Trong
một cuộc tiếp xúc với Chuẩn tướng Phan Hòa Hiệp (cũng là cựu trưởng phái đoàn
VNCH trong Uỷ ban liên hợp bốn bên năm 1973), tướng Hiệp đã cho người viết biết
một vài chi tiết khá lý thú về chuyện này. Tướng Hiệp nói rằng vào khoảng hai
ngày sau khi tổng thống Hương nhậm chức (23-4), ông trở về nhà vào lúc đã khuya
và được bà Hiệp cho biết văn phòng tổng thống gọi điện thoại nhiều lần vì tổng
thống muốn nói chuyện với ông. Tướng Hiệp vội vàng gọi điện thoại đến phủ tổng
thống nói chuyện với Tổng thống Trần Văn Hương…
(Trần
Đông Phong)
Góp nhặt…ghi chép…
Chiếc HQ 802 nhổ neo lúc 6 giờ chiều 30-3-75, nhưng
vì sóng và gió ngược nên mãi đến 8 giờ tối mới rời quân cảng Cam Ranh để xuôi
nam về Vũng Tàu, trên tàu chở khoảng 4.000 tàn binh của SĐ/TQLC, như vậy chỉ có
1/3 quân số của sư đoàn thoát được về Cam Ranh, gần 8.000
TQLC còn lại
thì hoặc chết hay mất tích tại Thuận An và Đà Nẵng.
LĐ468 khi lui binh tại bãi biển Nam Ô, may mắn được tàu hải quân vào sát bờ đón nên quân số và vũ khí cá nhân còn đầy đủ. Cuộc lui binh của LĐ258 và LĐ147 TQLC tại căn cứ Non Nước đã xẩy ra trong hỗn loạn và đẫm máu, chỉ có những TQLC may mắn và biết bơi mới lên được
LĐ468 khi lui binh tại bãi biển Nam Ô, may mắn được tàu hải quân vào sát bờ đón nên quân số và vũ khí cá nhân còn đầy đủ. Cuộc lui binh của LĐ258 và LĐ147 TQLC tại căn cứ Non Nước đã xẩy ra trong hỗn loạn và đẫm máu, chỉ có những TQLC may mắn và biết bơi mới lên được
tàu. HQ 802
về đến Vũng Tàu lúc 4 giờ 20 chiều 31-3-75.
(Phạm Vũ Bằng)
10 ngày cuối cùng của VNCH
Thứ
Tư 23-04-1975
Tổng
thống Trần Văn Hương nói với tướng Hiệp cụ muốn tìm một đường dây đề nghị thẳng
với Bắc Việt về chuyện thương thuyết với Hà Nội. Chuyện thương thuyết này cần
phải được xúc tiến sớm chừng nào tốt chừng đó và đường dây qua phái đoàn Bắc
Việt trong Ủy ban liên hợp bốn bên, do đó cụ chỉ thị cho tướng Hiệp liên lạc
với phái đoàn Bắc Việt nếu họ chấp thuận thì tướng Hiệp có thể ra Hà Nội mở đầu
cho sự thương thuyết.
Tướng
Hiệp nói rằng ông liên lạc với phái đoàn Hoa Kỳ và được biết rằng vào ngày hôm
sau, 24-4-1975, sẽ có một chuyến phi cơ C130 đặc biệt từ Bangkok bay sang Sài
Gòn để đưa một số nhân viên trong phái đoàn Bắc Việt ra Hà Nội rồi lại trở về
Sài Gòn vào buổi tối hôm đó.
Tướng
Hiệp vào phi trường Tân Sơn Nhất nói chuyện với đại diện của Bắc Việt. Đại diện
của Bắc Việt vô cùng ngạc nhiên...Tướng Hiệp nói ông yêu cầu người đại diện của
Bắc Việt bay ra Hà Nội ngày hôm sau và khi trở về Tân Sơn Nhất vào buổi tối thì
cho ông biết kết quả.
Chiều
hôm sau, người đại diện của Bắc Việt trở về cho ông biết Hà Nội bác bỏ đề nghị
thương thuyết của Tổng thống Trần Văn Hương. Đại diện của Hà Nội còn nói thêm
rằng Hà Nội đòi chính quyền miền Nam phải đầu hàng vô điều kiện. (Mạn đàm với cựu Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp
tại Anaheim ,
Califomia, ngày 4 tháng 1 năm 2003)
Đó
là nổ lực duy nhất mà chính phủ VNCH cố gắng tìm cách gửi đại diện ra Hà Nội để
thăm dò nhằm tiến đến một cuộc thương thuyết và người chủ trương đường lối này
là tân Tổng Thống Trần Văn Hương. Cả hai ông đại sứ Hoa Kỳ và đại sứ Pháp cũng
cùng quan điểm như vậy và họ nghĩ rằng vẫn còn có thể giàn xếp để cho hai phe
Sài Gòn và Hà Nội nói chuyện với nhau nhằm đạt được một giải pháp chính trị nào
đó.
Tuy
nhiên, cả người Việt Nam, người Pháp và kể cả người Mỹ là đại sứ Martin cũng
không thể hiểu được rằng cho đến giờ chót, người làm chính sách (policy maker)
cao cấp nhất của nước Mỹ là Ngoại trưởng Henry Kissinger không hề bao giờ có ý
định để cho hai phe người Việt Nam đối nghịch có thể trực tiếp ngồi lại nói
chuyện với nhau, dù lúc đó đã là những ngày cuối cùng của trận chiến tranh.
(…)
Ngày thứ 46 : 24-4-1975
Bà Rịa
Ngày 24-4, Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh SĐ3/BB (Vùng 1
CT) nhận trách nhiệm tư lệnh Mặt trận
Bà Rịa bảo vệ thị xã này.
Thiếu tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh Sư
đoàn thủy quân lục chiến, được cử làm Tổng trấn thị xã Vũng Tàu, tái phối trí lực
lượng tại các phòng tuyến quanh Sài Gòn.
(SQTB K10B/72)
10 ngày cuối cùng của VNCH
Thứ
Năm 24-04-1975
Theo
các tác giả Trần Văn Đôn trong Việt
Nam nhân chứng, Frank Snepp trong Decent
Interval và Oliver Tood trong Cruel Avril thì hồi 10 giờ sáng ngày 24-4-75,
qua sự trung gian của cựu Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng thống Trần Văn Hương
đã đến gặp cựu Đại tướng Dương Văn Minh tại tư gia của đại tướng Khiêm trong cư
xá sĩ quan tại Bộ tổng tham mưu gần phi trường Tân Sơn Nhất. Đại úy Nguyễn Văn
Nhựt, tùy viên của Tổng thống Trân Văn Hương thuật lại cho người viết biết rằng
cụ Hương không muốn gặp ông Minh ở dinh Độc Lập cũng như tại phủ phó tổng thống
ở đường Công Lý, Cụ cũng không muốn gặp ông Minh tại tư gia ở đường Hồng Thập
Tự như ông Minh muốn, do đó cụ nhờ ông Khiêm sắp đặt cuộc gặp gỡ này.
Trong
cuộc tiếp xúc, Tổng thống Trần Văn Hương đã yêu cầu tướng Minh nhận chức thủ
tướng toàn quyền để thương thuyết với phe bên kia theo đề nghị của đại sứ Pháp.
Tổng thống Trần Văn Hương đã nói với lưỡng viện quốc hội về việc gặp gỡ tướng
Dương Văn Minh rằng:
Người ta bảo rằng Anh có đủ điều kiện để thương
thuyết, vậy thì xin Anh vì nước nhà, mọi tỵ hiềm đã qua, mọi sự không tốt đẹp
đã xảy ra, xin Anh vui lòng xóa bỏ để cùng nhau chung lưng dựng nước. Xin Anh
chấp nhận cái ghế thủ tướng để đứng ra thương thuyết với phe bên kia.
Tuy
nhiên tướng Minh đã cương quyết từ chối và ngược lại ông đã yêu cầu tổng thống
Hương từ chức, nhường chức vụ tổng thống VNCH lại cho ông Minh để được toàn
quyền nói chuyện với phe bên kia. (Phỏng vấn Đại úy Nguyễn Văn Nhựt)
(Trần
Đông Phong)
Xuân Lộc tháng Tư
(…tiếp Xuân Lộc tháng tư
của Vương Mộng Long
di tản từ mặt trận Long Khánh về đến Bà Rịa)
Đường liên tỉnh lộ
Long Khánh, Bà Rịa nhỏ và hẹp. Ra khỏi ngã ba Tân Phong một đỗi, thỉnh thoảng
chân tôi đá phải những xác người nằm chết rải rác đó đây, những người dân chạy
giặc, trúng đạn pháo chết oan, những cái xác còn mềm, có cái còn toàn thân, có
cái chỉ còn một phần hình hài con người. Tôi đi ngang qua đồn điền Michelin vào
lúc vợ chồng con cái hối hả lên đường. Có những bé thơ chừng năm, bảy tuổi,
chân bó áo bó quần từng cục vải to. Tội nghiệp cho bé, chân non đường dài!
Tôi chạnh nhớ đến ba
đứa con tôi ở Ban Mê Thuột, đứa lớn nhất mới bốn tuổi, vợ tôi lại đang mang
bầu. Ban Mê Thuột đã rơi vào tay giặc từ đầu tháng 3-1975. Gia đình tôi đã rơi
vào tay giặc khi tôi gắng sức bảo vệ gia đình những người khác ở Quảng Đức.
Đoạn đường vài chục
cây số từ Tân Phong đi Bình Ba, Bà Rịa thực ra không có gì là đáng ngại đối với
những người lính TĐ82 BĐQ. Nhưng cái nhiệm vụ nặng nề bảo vệ tư lệnh hành quân
đã làm tốc độ tiến quân của chúng tôi giảm đi nhiều so với khả năng. Đi chừng nửa giờ tôi lại phải cho đơn vị dừng quân bố trí chờ đơn vị theo
sau. Quân nhân của những đơn vị khác đi hàng một trên đường, vậy mà vẫn chậm
hơn nhiều so với đội hình tác chiến một hàng dọc của TĐ82 BĐQ đi sâu gần bìa
rừng trái trục lộ. Có lúc hỏa châu soi khi ngừng
quân, tư lệnh (Chuẩn tướng Lê Minh Đảo) quan sát bên đường một lúc rồi hỏi tôi,
– Quân của Long đâu
sao qua không thấy?
Tôi phải giải thích
với ông rằng đơn vị tôi đã được tập luyện thành thói quen, bất cứ lúc nào dừng
quân, mỗi người lính tự động núp vào bụi cây, gò đất, nếu không có gì ẩn nấp,
họ phải ngồi thủ thế, súng trên tay sẵn sàng tác xạ. Hỏa châu không đủ soi sáng
đội hình, nên tư lệnh không thấy rõ họ. Nghe tôi giải thích
có lý, tướng tư lệnh gật đầu,
Ngồi ở
quán nhậu kể chuyện súng đạn
Ði lính
hơn ba năm, hắn khoe hắn đã bắn chết đúng tám tên địch. Sang Mỹ, mỗi lần nhậu
ngà ngà, hắn lại khoe khoang thành tích ấy. Bạn bè hắn không tin. Hắn cởi áo và
xắn quần lên khoe: Trên lưng và dưới chân hắn còn thấy rõ tám vết sẹo. Bạn bè
hắn cười: Ông bị tám vết thương đâu có nghĩa là ông giết được tám tên địch.
Hắn vẫn khăng khăng: Thì có gì khác nhau đâu?.
(Website Tiền Vệ - Truyện
cực ngắn hay Truyện chớp)
Tới một cái cầu nơi con suối sâu,
nước chảy ào ào, đoàn quân qua cầu hàng dọc, rồi chuyển sang hàng ngang tiến
sâu về hướng bìa rừng, khi an ninh đã sẵn sàng, tôi mới mời tư lệnh và đại tá
Hiếu rời vị trí ẩn nấp tiếp tục lên đường.
(Vương Mộng Long)
Ngày thứ 47 : 25-4-1975
Bình Dương, Long An
Giao tranh ở phòng tuyến Bình Dương.
Ngày 25-4, Bắc quân điều động sư đoàn có bí số CT-7 (1) và 2 trung đoàn cơ động áp sát tại tuyến phòng thủ của Sư đoàn 5 BB. Bắc quân muốn chọc thủng mặt đông của tỉnh Bình Dương và mặt tây của tỉnh Biên Hòa để tiến về Sài Gòn.
Tuyến phòng thủ Long An
Tại mặt trận Long An, Sư đoàn 22 BB được giao nhiệm vụ phòng thủ vòng đai thị xã Long An và khu vực từ Tân An về Sài Gòn. Các đơn vị của Sư đoàn 22 được đặt thuộc quyền điều động của Biệt khu Thủ đô do Trung tướng Nguyễn Văn Minh làm tư lệnh.
Ngày 25-4, Bắc quân điều động sư đoàn có bí số CT-7 (1) và 2 trung đoàn cơ động áp sát tại tuyến phòng thủ của Sư đoàn 5 BB. Bắc quân muốn chọc thủng mặt đông của tỉnh Bình Dương và mặt tây của tỉnh Biên Hòa để tiến về Sài Gòn.
Tuyến phòng thủ Long An
Tại mặt trận Long An, Sư đoàn 22 BB được giao nhiệm vụ phòng thủ vòng đai thị xã Long An và khu vực từ Tân An về Sài Gòn. Các đơn vị của Sư đoàn 22 được đặt thuộc quyền điều động của Biệt khu Thủ đô do Trung tướng Nguyễn Văn Minh làm tư lệnh.
(SQTB K10B/72)
(1) CT là tên gọi một sư đoàn. CT-7 là Công trường 7.
10 ngày cuối cùng của VNCH
Thứ
Sáu 25-04-1975
Cựu
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối 21-4, tuy nhiên ông vẫn còn trú ngụ
trong dinh Độc Lập cho đến ngày 25-4. Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp kể
lại vào hồi 5 giờ 30 chiều ngày 25-4-75, trùm CIA Thomas Polgar gọi tướng
Charles Timmes và Frank Snepp vào văn phòng của ông ta và ra lệnh cho họ phải
giúp cho ông ta đưa ông Thiệu và ông Khiêm đi Đài Loan vào tối hôm đó.
Khoảng 8 giờ rưỡi
tối, tướng Timmes, Frank Snepp cùng 2 nhân viên CIA khác lái ba chiếc xe đến tư
gia của Đại tướng Trần Thiện Khiêm trong Bộ tổng tham mưu và khoảng 9 giờ tối
thì trùm Polgar cũng đến nơi. Ít lâu sau thì một chiếc xe Mercedes (1a) chạy đến đậu ngay trước nhà ông Khiêm và ông
Thiệu vội vã bước vào nhà.
Frank Snepp kể rằng
ông Thiệu có mái tóc bạc chải bóng loáng, quần áo ủi thẳng nếp và trong lúc
trời còn tranh tối tranh sáng: Ông ta có vẻ giống như là “Một người mẫu trong
tạp chí Gentleman’s Quartery” hơn là một vị cựu tổng thống đi tỵ nạn.
Ngồi ở quán nhậu kể chuyện di tản
Mồ cha thằng Thiệu rời dinh
Để tao ở
lại đào kinh mỗi ngày
Đoàn tuỳ tùng của ông
Thiệu người nào người nấy đều to con vạm vỡ tay xách những chiếc va-li quá khổ
đến những chiếc xe của toà đại sứ Mỹ và họ đòi phải để cho họ đích thân đặt
những chiếc va-li đó vào thùng sau xe. Frank Snepp nói ông ta không biết trong
những va-li đó đựng gì, tuy nhiên có vẻ rất nặng vì khi những hành lý đó được
đặt xuống xe thì nghe như có tiếng kim loại chạm vào kim loại.
Theo
Frank Snepp thì sau khi đưa hành lý vào thùng xe, Polgar, tướng Timmes cùng
nhiều nhân viên người Việt ra khỏi nhà và bước lên xe. Ông Thiệu lên ngồi đằng
sau xe của Frank Snepp, ông ta ngồi giữa tướng Timmes và một nhân viên người
Việt. Trên xe, tướng Timmes nói với ông Thiệu: Xin Tổng thống cúi đầu xuống. Khi
xe đi vào cổng phi trường Tân Sơn Nhất, ông ta lại vội vã nhắc ông Thiệu cúi
đầu xuống nữa vì lính gác có thể nhìn mặt người trong xe, nhất là lúc đó đã sau
giờ giới nghiêm. May thay, khi thấy xe mang bảng số ngoại giao đoàn, lính gác
vẫy tay cho đoàn xe chạy thẳng.
(…)
Góp nhặt
sỏi đá
Chúng
tôi lần lượt ra xe và yêu cầu họ mở cốp sau. Tôi bỏ cái samsonite vào, (lúc ông
Polgar đang viết gì đó, tôi bỏ thêm cây K54 vào samsonite) hai khẩu súng chạm
nhau khua lộp cộp. Trong sách của Frank Snepp có nhắc tới chuyện này. Ông có
nghe tiếng kim loại khua khi chúng tôi xếp sắc tay vào cốp xe, và có thể nghĩ
đó là tiếng va chạm của vàng bạc, châu báu!
(Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn - Nguyễn Tấn Phận)
Nguyễn Tấn Phận, thiếu tá
tuỳ viên đi theo tổng thống Thiệu qua Đài Bắc.
Lạc đạn
Vào
khoảng 7 giờ 30 tối, tổng thống Thiệu thay bộ đồ bốn túi trong phòng ngủ rồi
qua phòng nhỏ bên cạnh nghiêng đầu qua cửa sổ nhìn xuống. Dưới sân, bên cạnh thềm
tam cấp một xe Mercedes mầu xanh đen đã đậu sẵn. Thấy mọi việc đã sẵn sàng, tổng
thống Thiệu rút trong hộc tủ cây Browning đã lắp đạn, ông khóa chốt an toàn rồi
cho vào túi áo. Ông vừa bước xuống bậc tam cấp thì vào lúc có hai binh sĩ (tên
là Sanh và Khình) xuất hiện làm ông giật mình thò tay vào túi áo. Thực ra là họ
chỉ đến để đổi gác.
Ông
Thiệu và ông Điền vội vã bước vào xe. Đại tá Điền ngồi bên phải của tổng thống
Thiệu ở băng sau. Như vậy là ông Điền đã ngồi vào chỗ chính thức của tổng thống
và chịu làm Lê Lai cứu chúa! Vừa ngồi vào xe, ông Thiệu hỏi:
-
Có mấy cây súng?
Đại
tá Điền đáp:
-
Có hai cây, một cây dài, một cây ngắn.
(Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn - Nguyễn Tấn Phận)
Ngày
2-9-1975, chiếc xe Mercedes được sử dụng để
chở Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại lễ duyệt binh ở Ba Đình, Hà Nội nhân dịp quốc
khánh ngày Việt Nam
thống nhất. Trong khi tiếp quản dinh Độc Lập, một đơn vị bộ đội phát hiện một
chiếc xe nhãn hiệu Mercedes 4 chỗ, biển số 72 M-0217 màu xanh đen, số khung
100248, số máy 027150.
Chiếc
xe này có kính chống đạn, sườn sắt chống mìn đã được cựu Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu đặt mua năm 1970.
(Wikipedia)
No comments:
Post a Comment