Không lực
Việt Nam Cộng Hòa, hay Không quân Việt Nam Cộng Hòa, là lực lượng
Không quân của Việt Nam Cộng Hòa trực thuộc Quân lực Việt Nam Cộng
Hòa tồn tại từ năm 1954 đến năm 1975 trong thời kỳ Chiến tranh Việt
Nam. Khẩu hiệu là "Tổ Quốc - Không Gian".
Hình thành và phát triển
Lực lượng Không quân Việt Nam Cộng Hòa được hình thành từ một số phi
công người Việt được tuyển chọn bay cùng với các phi công Pháp với
tư cách là sĩ quan của quân đội Pháp. Khi Quốc gia Việt Nam, được
thành lập, các sĩ quan người Việt này được chuyển sang cơ cấu Quân
đội Quốc gia Việt Nam. Bản thân Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc
gia Việt Nam Nguyễn Văn Hinh cũng xuất thân là một sĩ quan phi công,
vì vậy, ông rất chú trọng việc xây dựng lực lượng Không quân. Tháng
6 năm 1951, một cơ quan phụ trách về ngành Không quân trực thuộc Bộ
Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập với tên gọi
là Ban Không quân, ban đầu chỉ làm nhiệm vụ phụ trách Phi đội Liên
lạc. Trên thực tế, các phi công người Việt chỉ làm nhiệm vụ bay cùng
với các phi công Pháp trong các phi vụ. Các chức vụ chỉ huy đến bay
chính đều là sĩ quan Pháp. Ngay cả chức vụ Trưởng Ban Không quân,
kiêm Phụ tá Không quân cho Tổng tham mưu trưởng cũng là sĩ quan
Pháp. Năm 1953, Pháp thành lập thêm 2 Phi đội Quan sát và Trợ chiến
tại Tân Sơn Nhất, Sài Gòn và Nha Trang. Năm 1954, Ban Không quân
được đổi thành Phòng Không quân. Năm 1955, Không quân Pháp bàn giao
lại cho Không quân Quốc gia Việt Nam khoảng 25 Vận tải cơ C-47, 2
Phi đoàn Quan sát L-19 và 25 Khu trục cơ cánh quạt F-8F Bearcat lỗi
thời. Tháng 7 năm 1955, lần đầu tiên một người Việt được giữ chức vụ
Phụ tá Không quân là Trung tá Nguyễn Khánh.
Đệ nhất Cộng Hòa
Sau cuộc trưng cầu dân ý tháng 10 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm
tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng Hòa. Lực lượng Không quân Quốc gia
Việt Nam cũng được cải danh thành Không quân Việt Nam Cộng Hòa.
Thiếu tá Trần Văn Hổ, đương kim Phụ tá Không quân, được thăng Trung
tá, và trở thành Chỉ huy trưởng đầu tiên của Không quân Việt Nam
Cộng Hòa.
Năm 1957, theo chương trình hợp tác viện trợ, một phái đoàn Không
quân Hoa Kỳ sang nghiên cứu tình hình để soạn thảo kế hoạch huấn
luyện cho Không quân VNCH. Nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan được tuyển chọn
sang tu nghiệp tại các trường Không quân Hoa Kỳ. Các phi trường Tân
Sơn Nhất, Biên Hòa, Đà Nẵng được xây dựng và mở rộng. Trung tâm Huấn
luyện Không quân Nha Trang cũng được xây dựng, nhằm đào tạo tại chỗ
các khóa Hoa tiêu và Quan sát viên, và các khóa đào tạo chuyên viên
để bổ sung cho các đơn vị.
Tháng 9 năm 1959, một Phi đội đầu tiên gồm 6 phi cơ Skyraider (Thiên
tướng) được Hoa Kỳ chuyển giao cho Không quân VNCH. Sau đó trong
vòng 1 năm có thêm 25 chiếc Skyraider khác được bàn giao tại Căn cứ
Không quân Tân Sơn Nhất. Năm 1960, Phi đoàn 1 Khu trục cơ được thành
lập và bắt đầu hoạt động từ Bến Hải đến Cà Mau để yểm trợ cho bộ
binh Việt Nam Cộng Hòa[2]
Năm 1961, chương trình trợ giúp của Hoa Kỳ có tên Farm gate đã đưa
các loại phi cơ cánh quạt huấn luyện T-28, oanh tạc cơ hạng nhẹ B-26
và Vận tải cơ C-47 cùng khoảng 124 sĩ quan và 228 quân nhân Hoa Kỳ
sang giúp huấn luyện. Các hệ thống hướng dẫn và kiểm soát không lưu
được thiết lập tại các phi trường Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng và
Pleiku[3]. Liên đoàn 1 Không vận đầu tiên được thành lập với trung
tá Nguyễn Cao Kỳ được chỉ định làm Liên đoàn trưởng. Hoa Kỳ cũng
trao cho Không quân VNCH thêm 16 vận tải cơ hạng trung C-123 trong
tháng 12 năm 1961.
Ngày 26 tháng 2 năm 1962, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn
Cử trên đường công tác đã đột ngột quay trở lại dội bom mưu toan
giết chết Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm. Ngay lập tức
tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh đình chỉ vô hạn định các phi vụ
chiến đấu. Cũng vì lý do này mà đương kim Tư lệnh Không quân là
Nguyễn Xuân Vinh bị thất sủng, phải xin giải ngũ với lý do sang Hoa
Kỳ học ngành Tiến sĩ Không gian. Năm 1962, các đơn vị Không quân tác
chiến và yểm trợ tác chiến được tăng lên cấp Không đoàn tại mỗi vùng
chiến thuật: Không đoàn 41 (căn cứ ở Đà Nẵng), Không đoàn 62
(Pleiku), Không đoàn 23 (Biên Hòa), Không đoàn 33 (Tân Sơn Nhất),
Không đoàn 74 (Cần Thơ).
Đệ nhị Cộng Hòa
Sau cuộc "chỉnh lý", Tướng Nguyễn Khánh lên nắm quyền thực hiện một
số cải tổ trong quân đội. Ngoài việc đặt ra thêm cấp bậc Chuẩn
tướng, ông còn cho thay đổi tên gọi "Quân đội Việt Nam Cộng Hòa"
thành "Quân lực Việt Nam Cộng Hòa". Danh xưng Không lực Việt Nam
Cộng Hòa cũng được sử dụng chính thức từ lúc đó. Năm 1965, KLVNCH có
thêm các Phi đoàn Khu trục cơ A-37 Dragonfly và sau đó là các Phi
đoàn không vận cánh quạt loại lớn C-130 Hercules và Trực thăng CH-47
Chinook. Ngày 3 tháng 2 năm 1965, một Phi đoàn gồm 24 chiếc A-1H
Skyraider do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy cất cánh từ Căn cứ
Không quân Đà Nẵng và tham gia vào Chiến dịch Mũi tên lửa (Flaming
Dart) do Hoa Kỳ vạch định, tấn công các địa điểm ở phía bắc Vĩ tuyến
17 vào Ngày 11 tháng 2 năm 1965, đại tá Nguyễn Ngọc Loan, tư lệnh
phó KLVNCH, làm Phi đoàn trưởng 28 chiếc Skyraider của Việt Nam Cộng
Hòa cùng với 28 chiếc F-100 của Không quân Hoa Kỳ mở cuộc tấn công
thứ hai vào lãnh thổ phía bắc Vĩ tuyến 17. Trong đợt này phi công
Phạm Phú Quốc bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc Việt Nam.
Năm 1967, KLVNCH có thêm 1 Phi đoàn Khu trục trang bị phản lực cơ
F-5. Số hiệu của các đơn vị cấp Phi đoàn được cải tổ và xếp thành 3
chữ số. Theo đó, chữ số đầu trong 3 chữ số của đơn vị cấp Phi đoàn
được dùng để chỉ công dụng của Phi đoàn đó:
- Số 1: Phi đoàn Liên lạc,
- Số 2: Phi đoàn Trực thăng,
- Số 3: Đặc vụ,
- Số 4: Vận tải,
- Số 5: Khu trục,
- Số 7: Quan sát,
- Số 8: Hỏa long, và
- Số 9: Huấn luyện.
Năm 1970, với đà phát triển nhanh của KLVNCH, các Không đoàn chiến
thuật phát triển thành 4 Sư Đoàn Không quân[9], tác chiến hỗ trợ cho
4 vùng chiến thuật.
Năm 1971, Sư Đoàn 5 Không quân được thành lập và trở thành lực lượng
Không quân trừ bị của Bộ Tổng tham mưu.
Năm 1975, KLVNCH có 5 Sư Đoàn Không quân tác chiến:
- 20 Phi đoàn Khu trục cơ với khoảng 550 phi cơ A-1H Skyraider, A-37
Dragonfly, và F-5,
- 23 Phi đoàn Trực thăng với khoảng 1,000 phi cơ UH-1 Iroquois và
CH-47 Chinook,
- 8 Phi đoàn Quan sát với khoảng 200 phi cơ O-1 Bird Dog, O-2
Skymaster, và U-17,
- 1 Sư Đoàn Vận tải với các đơn vị sau đây:
* 9 Phi đoàn Vận tải với khoảng 150 phi cơ C-7 Caribou, C-47
Skytrain, C-119 Flying Boxcar, và C-130 Hercules,
* 1 Không đoàn Tân trang Chế tạo,
* 4 Phi đoàn Hỏa long (Attack squadron) với các phi cơ Fairchild
AC-119, Lockheed AC-130.
Ngoài ra còn có các Phi đoàn Trắc giác (Tình báo kỹ thuật), Phi đoàn
Quan sát, và Biệt đoàn Đặc vụ 314.
Cơ cấu tổ chức Không lực Việt Nam
Cộng Hòa
Quân số vào lúc cao điểm là trên 60,000 quân nhân với hơn 2,000 phi
cơ các loại.
Sau đây là bảng Cấp số các Đơn vị thuộc Binh chủng Không quân VNCH
từ thấp đến cao với chú thích tương đương bằng Anh ngữ (trong
ngoặc):
- Phi tuần (Section hay Detail): 2 đến 3 phi cơ
- Phi đội (Flight): 4 đến 6 phi cơ
- Phi đoàn (Squadron): gồm nhiều Phi đội hay Phi tuần
- Liên đoàn (Group): 2 Phi đoàn trở lên
- Không đoàn (Wing): nhiều Phi đoàn hay ít nhất 2 Liên đoàn bay
- Sư Đoàn (Air division): 2 Không đoàn trở lên
- Bộ tư lệnh Không quân (Air command) đóng tại Sài Gòn.
Các Phi đoàn
Số hiệu của các Phi đoàn gồm có 3 chữ số. Theo đó, chữ số đầu trong
3 chữ số của Phi đoàn được dùng để chỉ công dụng của Phi đoàn đó:
- Số 1: Phi đoàn Liên lạc,
- Số 2: Phi đoàn Trực thăng,
- Số 3: Đặc vụ,
- Số 4: Vận tải,
- Số 5: Khu trục,
- Số 7: Quan sát,
- Số 8: Hỏa long, và
- Số 9: Huấn luyện.
Bộ tư lệnh Không quân (Sài Gòn)
I. Sư Đoàn 1 Không quân
(Đà Nẵng)
A. Không đoàn chiến thuật 41
1. Phi đoàn Liên lạc 110MS 500 Criquet O-1 Bird Dog U-17A/B
Skywagon. Đà Nẵng:
2. Phi đoàn Vận tải 427 C-7 Caribou Đà Nẵng:
B. Không đoàn chiến thuật 51 Đà Nẵng
1.
Phi đoàn Trực thăng 213 UH-1
2. Phi đoàn Trực thăng 233 UH-1
3. Phi đoàn Trực thăng 239 UH-1
4. Phi đoàn Trực thăng 247 CH-47 Chinook
5. Phi đoàn Trực thăng 253 UH-1
6. Phi đoàn Trực thăng 257 UH-1
C. Không đoàn chiến thuật 61
1. Phi đoàn Khu trục 516 A-37B Dragonfly Nha Trang
2. Phi đoàn Khu trục 528 A-37B Dragonfly Đà Nẵng
3. Phi đoàn Khu trục 538 F-5A/B Freedom Fighter Đà Nẵng
4. Phi đoàn Khu trục 550 A-37B Dragonfly Đà Nẵng
II. Sư Đoàn 2 Không quân
(Nha Trang)
A. Không đoàn chiến thuật 62
1. Phi đoàn Liên lạc 114 O-1 Bird Dog, U-17A/B Skywagon
2. Phi đoàn Trực thăng 215 UH-1
3. Phi đoàn Trực thăng 219 H-34 Choctaw, UH-1
4. Biệt đội tải thương 259C UH-1
5. Phi đoàn Vận tải 817 AC-47D Spooky
B. Không đoàn chiến thuật 92
1. Biệt đội tải thương 259D UH-1
2. Phi đoàn Khu trục 524 A-37B Dragonfly
3. Phi đoàn Khu trục 534 A-37B Dragonfly
4. Phi đoàn Khu trục 548 A-37B Dragonfly
III. Sư Đoàn 3 Không quân
(Biên Hòa)
A. Không đoàn chiến thuật 23
1. Phi đoàn Liên lạc 112 MS 500 Criquet, O-1 Bird Dog, U-17A/B
Skywagon
2. Phi đoàn Liên lạc 124 O-1 Bird Dog, U-17A/B Skywagon, O-2A
Skymaster
3. Phi đoàn Khu trục 514 A-1 Skyraider
4. Phi đoàn Khu trục 518 A-1 Skyraider
B. Không đoàn chiến thuật 43 (Biên Hoà)
1. Phi đoàn Trực thăng 221 UH-1
2. Phi đoàn Trực thăng 223 UH-1
3. Phi đoàn Trực thăng 231 UH-1
4. Phi đoàn Trực thăng 237 CH-47 Chinook
5. Phi đoàn Trực thăng 245 UH-1
6. Phi đoàn Trực thăng 251 UH-1
7. Biệt đội tải thương 259E UH-1
C. Không đoàn chiến thuật 63 (Biên Hoà)
1. Phi đoàn Khu trục 522 F-5A/B Freedom Fighter, RF-5A Freedom
Fighter
2. Phi đoàn Khu trục 536 F-5A/B Freedom Fighter, F-5E Tiger II
3. Phi đoàn Khu trục 540 F-5A Freedom Fighter, F-5E Tiger II
4. Phi đoàn Khu trục 542 F-5A Freedom Fighter
5. Phi đoàn Khu trục 544 F-5A Freedom Fighter
IV. Sư Đoàn 4 Không quân
(Cần Thơ)
A. Không đoàn chiến thuật 64 (Bình Thủy)
1. Phi đoàn Trực thăng 217 UH-1
2. Phi đoàn Trực thăng 249 CH-47 Chinook
3. Phi đoàn Trực thăng 255 UH-1
4. Biệt đội tải thương 259F UH-1H
5. Phi đoàn Liên lạc 120: O-1 Bird Dog, U-17A/B Skywagon Bình Thủy
B. Không đoàn chiến thuật 74
1. Phi đoàn Liên lạc 116 O-1 Bird Dog, U-17A/B Skywagon
2. Phi đoàn Liên lạc 122 O-1 Bird Dog, U-17A/B Skywagon
3. Phi đoàn Khu trục 520 A-37B Dragonfly
4. Phi đoàn Khu trục 526 A-37B Dragonfly
5. Phi đoàn Khu trục 546 A-37B Dragonfly
C. Không đoàn chiến thuật 84
1. Phi đoàn Trực thăng 211 UH-1 Bình Thủy
2. Phi đoàn Trực thăng 225 UH-1 Sóc Trăng
3. Phi đoàn Trực thăng 227 UH-1 Sóc Trăng
4. Biệt đội tải thương 259H UH-1 Bình Thuỷ
5. Biệt đội tải thương 259I UH-1 Sóc Trăng
V. Sư Đoàn 5 Không quân
(Sài Gòn)
A. Không đoàn chiến thuật 33 (Tân Sơn Nhất)
1. Biệt đội tải thương 259G UH-1H
2. Biệt đoàn Đặc vụ 314 C-47, U-17A/B Skywagon, UH-1, DC-6B, Aero
Commander
3. Phi đoàn Vận tải 415 C-47
4. Phi đoàn Quan sát 716 T-28A Trojan, EC-47D Dakota, U-6A Beaver,
RF-5A Freedom Fighter
5. Phi đoàn Quan sát 720 RC-119
B. Không đoàn chiến thuật 53 (Tân Sơn Nhất)
1. Biệt đội tải thương 259 UH-1
2. Phi đoàn Vận tải 413 C-119 Flying Boxcar
3. Phi đoàn Vận tải 421 C-123 Provider
4. Phi đoàn Vận tải 423 C-130A
5. Phi đoàn Vận tải 425 C-130A
7. Phi đoàn Vận tải 435 C-130A
8. Phi đoàn Vận tải 437 C-130A
9. Phi đoàn Hỏa long 819 AC-119G Shadow
10. Biệt đội Quan sát 718 EC-47D Dakota Tân Sơn Nhất
11. Phi đoàn Hỏa long 821 AC-119K Stinger Tân Sơn Nhất
VI. Sư Đoàn 6 Không quân
(Pleiku)
A. Không đoàn chiến thuật 72
1. Biệt đội tải thương 259B UH-1
2. Phi đoàn Liên lạc 118 O-1 Bird Dog, U-17A/B Skywagon, O-2A
Skymaster,
3. Phi đoàn Trực thăng 229 UH-1
4. Phi đoàn Trực thăng 235 UH-1
5. Phi đoàn Khu trục 530 A-1 Skyraider
B. Không đoàn chiến thuật 82 (Phù Cát, Bình Định)
1. Biệt đội tải thương 259A UH-1
2. Phi đoàn Trực thăng 241 CH-47 Chinook
3. Phi đoàn Trực thăng 243 UH-1
4. Phi đoàn Vận tải 429 C-7 Caribou
5. Phi đoàn Vận tải 431 C-7 Caribou
6. Phi đoàn Khu trục 532 A-37B Dragonfly
Trung tâm huấn luyện Không quân
1. Phi đoàn huấn luyện 912 T-6G Texan
2. Phi đoàn huấn luyện 918 T-41 Mescalero
3. Phi đoàn huấn luyện 920 T-37, UH-1 Huey
Không đoàn tân trang chế tạo
Danh sách các tư lệnh qua các thời kỳ
1. Nguyễn Khánh 1955 Trung tá, sử dụng chức danh
Phụ tá Không quân cho Tổng tham mưu trưởng
2. Trần Văn Hổ 1955-1957: Thiếu tá (1955), Trung tá
(1955), Đại tá (1956)
3. Tư lệnh Không quân đầu tiên. Được thăng vượt cấp từ Trung úy lên
Thiếu tá. Nguyễn Xuân Vinh 1957-1962 Trung tá, Đại
tá (1961). Thất sủng sau Vụ đánh bom Dinh Độc Lập 1962. Xin giải ngũ
sang Hoa Kỳ học bằng Tiến sĩ.
4. Huỳnh Hữu Hiền 1962-1963: Trung tá, Đại tá
(1963)
5. Đỗ Khắc Mai 1963: Đại tá (1963), được thăng vượt
cấp từ Thiếu tá.
6. Nguyễn Cao Kỳ 1964-1965: Đại tá, Chuẩn tướng
(1964), Thiếu tướng (1965)
7. Trần Văn Minh 1965-1975: Thiếu tướng, Trung
tướng (1974)
8. Nguyễn Hữu Tần 1975: Chuẩn tướng Tư lệnh Sư Đoàn
4 Không quân đồng thời là quyền tư lệnh cuối cùng.
Trang bị
F-5E fighter, Phi cơ F-5C của Không lực Việt Nam
Cộng Hòa tại Căn cứ Không quân Biên Hòa năm 1971
Phi cơ 4400th CCTS T-28 của Không lực Việt Nam Cộng
Hòa đang bay trên bầu trời
Phi cơ Quan sát O-1 thuộc Phi đoàn Liên lạc
112/Không đoàn chiến thuật 23 - Căn cứ Không quân Biên Hòa - 1971
Phi cơ A-1H thuộc Phi đoàn Khu trục cơ 520, Căn cứ
Không quân Bình Thủy
Phi cơ Cessna U-17A tại Căn cứ Không quân Nha Trang
Phi cơ Hỏa long (thuật từ Không lực Việt Nam Cộng
Hòa gọi phi cơ cường kích)
Douglas A-1 Skyraider
Cessna A-37 Dragonfly
Douglas AC-47 Spooky
Fairchild AC-119G Shadow
Fairchild AC-119K Stinger
Oanh tạc cơ
Douglas B-26 Invader - nhận được trong chương trình Farm Gate
Martin B-57 Canberra - Không quân Hoa Kỳ cho mượn để dùng huấn luyện
- chưa bao giờ được KLVNCH dùng trong công tác chiến đấu
Khu trục cơ
Grumman F8F Bearcat
Northrop F-5A/B/C Freedom Fighter
Northrop F-5E Tiger II
Phi cơ quan sát và thám thính
Douglas RC-47 Dakota
Northrop RF-5A Freedom Fighter
Cessna L-19/O-1A Bird Dog
Cessna O-2A Skymaster
Morane-Saulnier MS 500 Criquet
Phi cơ Trực thăng
Aérospatiale AS- 318 Alouette II
Aérospatiale AS- 319 Alouette II
Bell UH-1 Iroquois/Huey
Sikorsky H-19 Chickasaw
Sikorsky H-34 Choctaw
Boeing CH-47 Chinook
Phi cơ huấn luyện
Pazmany PL-1
North American T-6 Texan
North American T-28 Trojan - nhận được trong chương trình Farm Gate
Cessna T-37 Tweet
Cessna T-41 Mescalero
Phi cơ đa dụng và Vận tải
L-26 Aero Commander
de Havilland Canada C-7 Caribou
Beechcraft C-45 Expeditor
Douglas C-47 Dakota
Douglas DC-6/C-118 Liftmaster
Fairchild C-119 Flying Boxcar
Fairchild C-123 Provider
Lockheed C-130 Hercules
Dassault MD 315 Flamant
de Havilland Canada U-6 Beaver
Cessna U-17A/B Skywagon
Republic RC-3 Seabee
CASA C212 Aviocar
Bùi Ngọc Thắng
(713)820-1470
21226 Somerset Park Ln
Katy, TX 77450
http://hoiquanphidung.com
Saturday, March 31, 2018
Tuesday, March 20, 2018
Tượng Đài Vinh Danh Phi Công Trực Thăng Tham Chiến tại Việt Nam
Quốc hội Hoa Kỳ vừa thông qua dự luật chuẩn thuận việc xây dựng một
đài tưởng niệm tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington, Tiểu bang Virginia, để vinh danh
các phi hành đoàn trực thăng đã hy sinh trong chiến tranh Việt Nam.
Hôm 30/4, báo The Military Times cho biết Quốc hội đã phê chuẩn việc
xây đài tưởng niệm đặt gần Mộ các chiến sĩ Vô danh, thuộc khu 35 dọc theo
Memorial Drive.
Theo AP, người khởi xướng vận động xây đài tưởng niệm là Trung tá
Không quân hồi hưu Bob Hesselbein, từng là một phi công lái máy bay trực thăng
AH-1 Cobra trong chiến tranh Việt Nam. Ông Hesselbein nói Nghĩa trang Quốc gia
Arlington là nơi tập hợp nhiều mộ của phi công lái trực thăng hy sinh trong chiến
tranh Việt Nam nhất.
Vào tháng 4/ 2014, ông Hesselbein, chủ tịch Hội cựu Phi công và các
thành viên khác trong hội đã tới nghĩa trang Arlington để thảo luận việc tặng một
cây xanh cho nghĩa trang để tướng nhớ các phi công đã nằm xuống. Sau đó một
trong các sử gia đề nghị nên xây một tượng đài.
Ông Hesselbein nói với tờ The Military Times: "Chúng tôi phát
hiện ra rằng nghĩa trang này là nơi tập trung nhiều nhất các mộ chiến sĩ không
quân từng tham chiến tại Việt Nam."
Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ Tammy Baldwin đại diện cho bang
Wisconsin nói rằng tượng đài sẽ là một "cơ hội để giáo dục" mọi người
hiểu câu chuyện của các phi công và nhân viên trong phi hành đoàn. Hoa Kỳ phụ
thuộc nhiều vào máy bay trực thăng để chuyển quân và tiếp liệu hỗ trợ cho lực
lượng bộ binh gần căn cứ của địch ở Việt Nam.
Kinh phí xây dựng đài tưởng niệm Phi công Trực thăng hy sinh trong
chiến tranh Việt Nam do Hiệp hội Phi công Trực thăng tham chiến tại Việt Nam
tài trợ.
Hiệp hội Phi công Trực thăng tham chiến tại Việt Nam đã vận động Quốc
hội, và thông qua sự hỗ trợ từ các cộng đồng trên toàn quốc, đạo luật Đài tưởng
niệm Phi công Trực thăng tham chiến tại Việt Nam được thông qua vào tháng 3, do
thượng nghị sĩ Tammy Baldwin thuộc đảng Dân chủ - đại diện bang Wisconsin, và
Dân biểu Dan Sullivan, đảng Cộng hòa, đại diện bang Alaska, giới thiệu dự luật
được sự ủng hộ của lưỡng đảng. Dân biểu Mark Amodei, đảng Cộng hòa – đại diện
bang Nevada là người giới thiệu dự luật tại Hạ viện.
Bà Baldwin nói với tờ Army Times rằng bà cảm thấy xúc động khi được
nghe những mẫu chuyện của ông Hesselbein về những trải nghiệm của cá nhân ông tại
Việt Nam, và "những câu chuyện về bạn bè và đồng đội của ông, những người
đã vĩnh viễn ra đi.”
Một tượng đài tôn vinh các Phi Hành Đoàn trực thăng tham chiến ở Việt Nam
mang ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với thân nhân đến nghĩa trang Arlington
thăm viếng người thân yêu, mà còn đối với những người không trực tiếp bị ảnh hưởng
bởi cuộc chiến.
Thượng nghị sĩ Baldwin nói tượng đài tôn vinh những sự hy sinh của
các phi hành đoàn trực thăng trong chiến tranh Việt Nam là điều lẽ ra nên được
xây dựng từ lâu.
Ước tính có khoảng 40.000 phi công trực thăng được đưa sang phục vụ
trong chiến tranh Việt Nam. Hiệp hội Phi công Trực thăng Mỹ tham chiến ở Việt
Nam hiện có hơn 15.700 thành viên.
Please be advised the Vietnam Helicopter Pilots Association invites former Viet Nam Air Force (VNAF)
helicopter pilots and crewmembers, Republic of Vietnam military
veterans, and their families join us for the dedication of the Vietnam
Helicopter Pilot and Crewmember Monument.
The
ceremony will commence at 4:00 PM, April 18, 2018 at the Arlington
National Cemetery Memorial Amphitheater (located directly behind the
Tomb of The Unknown Soldier). No tickets are required, and there are no
fees. All are warmly invited to attend. As a formal event, we ask
attendees to wear clothing appropriate to the honor and location of
Arlington National Ceremony.
We
recommend all attendees plan on arriving at 2:30 PM for the event.
Arlington National Cemetery (ANC) has instituted airport-style screening
which may cause a brief delay, and the walk to the Memorial
Amphitheater takes approximately 20 minutes. Transportation will be
available for those unable to make the walk to/from the dedication site.
At
4:50 PM following the retiring of the colors, a wreath-laying ceremony
will commence with flowers carried from the amphitheater to the nearby
monument located on Memorial Drive in Section 35, a short 75-yard walk.
Those wishing to honor their lost loved one or military unit with
flowers are welcome to join the procession with their wreath or
bouquet.
Following
the dedication ceremony, a reception will be held at 5:30 to 7:00 PM at
The Women In Military Service For America Memorial (WMSAM) located near
the cemetery Welcome Center at the west end of Memorial Avenue. All
VHPA members and their families, Vietnam Veterans, Gold Star Families
and distinguished visitors are invited to attend the post-dedication
event.
The
Vietnam Helicopter Pilots Association (VHPA) North Carolina Chapter
will provide a combat UH-1 for display in front of the WMSAM for the
April 18th ceremonies. The helicopter is the perfect symbol to
complement the event and will remind all visiting ANC of the courage and
sacrifice of those who operated rotary-wing aircraft in the Vietnam
War. Our thanks in advance to the North Carolina Chapter for this worthy
contribution.
Funding
for the April 18th activities must be paid for with private donations
and contributions. Although the VHPA has paid for the construction and
installation of the monument, the day’s events still need funding. We
ask for your financial support. Please consider donating to cover the
expenses of complementary souvenir programs, transportation, and
reception expenses. All donations are tax-deductible, and any funds
remaining after expenses are met will go to the VHPA scholarship fund.
Checks can be made out to: VHPA Monument Fund. Please mail your donation
to:
VHPA HQ
2100 N HWY 360, Suite 907
Grand Prairie, TX 75050-1030
Accommodations
in the immediate area of Arlington National Cemetery are likely to be
expensive due to cherry blossom season and Congress being in session on
April 18th. For those on a tight budget, we suggest considering hotels
away from the downtown district having access to the great Washington
Metro system (ANC has it own station stop). The closer to the Washington
Mall, the more expensive hotels become, most near ANC are all well over
$200 a night. The best locations found under $200 are:
1. Marriott Courtyard Springfield 6710 Commerce Street Springfield, Virginia 22150
2. Falls Church Marriott Fairview Park 3111 Fairview Park Drive Falls Church, Virginia 22042
3. Fairfield Inn & Suites Alexandria 6421 Richmond Highway Alexandria, Virginia 22306
4. Residence Inn Alexandria Old Town/Duke Street 1456 Duke Street Alexandria, Virginia 22314
5. Courtyard Arlington Crystal City/Reagan National Airport 2899 Jefferson Davis Highway Arlington, Virginia 22202
6. Holiday Inn Express Springfield 6401 Brandon Ave, Springfield, VA, 22150 United States, 866-925-4143
7. Courtyard Potomac Mills Woodbridge 14300 Crossing Pl. Woodbridge, VA 22192 USA
8. Holiday Inn Express Hotel & Suites Woodbridge 14030 Telegraph Road, Woodbridge, VA 22192
It
will be an honor to share this event with the courageous Vietnamese who
stood shoulder-to-shoulder with us in battle. Please join us on April
18, 2018, as we conclude the four-year effort to build and place the
Vietnam Helicopter Pilot and Crewmember Monument within the nation’s
most hallowed ground: Arlington National Cemetery. All are welcome to
join us as we honor the young men who gave “…the full measure of
devotion” operating rotary-wing aircraft in the Vietnam War.
I look forward to meeting you on April 18th,
Bob Hesselbein, Chairman
Legacy Committee
Vietnam Helicopter Pilots Association
2100 N HWY 360, Suite 907
Grand Prairie, TX 75050-1030
Monday, March 12, 2018
Friday, March 9, 2018
Sau 42 Năm, Nhìn Lại Vụ Tết Mậu Thân Những can phạm Tội Ác Chiến Tranh tại Huế có thể bị truy tố Sơn Tùng
Sau
gần nửa thế kỷ, vụ Việt Cộng đột kích vào các thành phố miền Nam Việt
Nam vào dịp Tết Mậu Thân (1968) vẫn còn được viết, được nói tới để sự
thật tiếp tục được phơi bày về một biến cố quân sự lớn trong cuộc Chiến
tranh Việt Nam (1960-1975).
Cuộc
tổng công kích Tết Mậu Thân không chỉ liên quan đến chiến thuật, chiến
luợc về mặt quân sự, nó còn là một khúc quanh trong chính sách của Hoa
Kỳ đối với Việt Nam, và liên quan đến truyền thông báo chí, và đến những
tội ác chiến tranh đã xảy ra.
Vào cuối năm 2010, có thêm một cuốn sách nữa của người Mỹ viết về cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân (1968): This Time We Win: Revisiting the Tet Offensive của James S. Robbins, một cây bút bình luận chính trị của nhật báo Washington Times.
Tác
giả đã dùng những tài liệu của phiá Việt Cộng để chứng minh rằng, trái
ngược với “mô tả” trên báo chí Mỹ lúc ấy, cuộc tổng công kích Tết Mậu
Thân đã làm suy yếu lực lượng VC tới gần điểm sụp đổ và gây tổn thất
nặng nề hạ tầng cơ sở của đối phương tại miền Nam. Còn phiá bộ đội cộng
sản Bắc Việt thì bị mất tinh thần, phần vì xa nhà, phần vì đường tiếp tế
quá dài, quân số hao mòn nhanh hơn là sự bổ sung có thể cung cấp do
“đường mòn HCM” từ Bắc vào Nam.
Cuộc
tổng công kích không nhằm mục đích chiếm giữ lâu dài các tỉnh và thành
phố miền Nam nhưng được hoạch định để tạm kiểm soát các cứ điểm quan
trọng và lãnh đạo quần chúng nổi dậy cướp chính quyền. Nhưng, cả hai mục
tiêu này đều đã không đạt được vì Việt cộng đã bị đẩy lui hầu như ở tất
cả mọi nơi và quần chúng cũng đã không nổi dậy mà còn bỏ chạy về phiá
quốc gia.
Tác
giả Robbins đã kể ra từng trường hợp một để chứng minh rằng vụ Tết Mậu
Thân không phải là “một cuộc tấn công bất ngờ” như báo chí Mỹ tường
trình. Không có chuyện tình báo thất bại vì kế hoạch tấn công của VC đã
rơi vào tay Nam VN và Mỹ trước khá lâu. Nhờ tin tức do cán binh Bắc Việt
cao cấp hồi chánh và VC trở cờ cung cấp, phiá Nam VN đã được báo động
và đề phòng. Theo tài liệu hậu chiến, trong tổng số khoảng 84,000 cán
binh VC tham gia cuộc tấn công Tết Mậu Thân, hơn một nửa (45,000) đã bỏ
mạng.
Trương
Như Tảng đã nhận định trong hồi ký của ông ta rằng vụ Tết Mậu Thân là
một tổn thất làm điên đảo hàng ngũ VC, và là một sự trớ trêu lớn khi một
cuộc thất trận như vậy “đã được truyên truyền của chúng ta biến thành một chiến thắng huy hoàng”.
Robbins
cho rằng khi ấy thay vì thừa thắng xông lên để đè bẹp VC thì TT
Johnson, với quan niệm chiến lược “chiến tranh giới hạn” và “tiệm tiến”
đã cho đối phương có thời gian để phục hồi. Cho tới mấy năm sau, vào
giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến với sư sa lầy của Mỹ, Tổng thống
Nixon mới ra lệnh oanh tạc toàn miền Bắc VN nhằm mục đích đem tù binh Mỹ
về nước.
Theo
Robbins, sau trận Tết Mậu Thân, ít người biết những phần tử chủ hoà ở
Hà-Nội đã muốn bỏ cuộc, và việc điều đình đã được công khai thảo luận,
nhưng phe diều hâu với Võ Nguyên Giáp cầm đầu đã thắng và đẩy mạnh cuộc
chiến tranh xâm chiếm miền Nam.
Về phiá Mỹ, Robbins kết luận rằng sự thiếu quyết tâm là nhược điểm của anh khổng lồ (Achilles’ heel),
đã đưa đến sự thất bại của một cuộc chiến tranh mà quân đội Mỹ và Nam
VN đã thắng, và thắng liên tiếp trên chiến trường. Tác giả cũng đã nhấn
mạnh đến vai trò của “phong trào phản chiến” tại mặt trận hậu phương
nước Mỹ và sự phản bội của giới báo chí Tây phương trong cuộc chiến.
Khi
ấy, dẫn đầu bởi Walter Cronkite, truyền thông dòng chính của Mỹ tại
miền Nam Việt Nam đã “định nghiã chiến trường theo chiều hướng có lợi
cho quân thù, bất kể sự thực.” Và tác giả đã kết luận bằng cách trích
dẫn lời của một người lính Mỹ: “Việt Cộng đã không hạ được chúng tôi, nhưng New York Times và CBS-TV có thể làm việc ấy.”
Tạp
chí VIETNAM số tháng 2/2011 cũng có ba bài về cuộc tổng công kích Tết
Mậu Thân. Hai bài của Don North và Wilburn Meador viết về cuộc tấn công
và giải cứu toà đại sứ Mỹ tại Sài-Gòn.
Bài về những gì xảy ra tại Huế trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân (What Really Happened At Hue),
tác giả là James Willbanks đã cung cấp nhiều chi tiết cập nhật về trận
đánh kéo dài hơn một tháng cũng như về tội ác của VC trong vụ tàn sát
thường dân tại Huế. James Willbanks là cựu chiến binh VN, đã viết nhiều
sách, trong đó có cuốn The Tet Offensive: A Concise History and Abandoning Vietnam, và hiện là giám đốc ngành Quân Sử tại Trường Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu của Bô Binh Hoa Kỳ.
James
Willbanks cho biết cuộc phản công giải cứu Huế kéo dài từ 31.1.1968 và
chấm dứt vào ngày 2.3.1968. Tổn thất của Quân đội VNCH là 384 tử trận,
1,800 bị thương và 30 mất tích. Thuỷ quân Lục chiến Mỹ có 147 bị giết và
857 bị thương. Bô Binh Mỹ 74 người chết và 507 bị thương. Tổn thất về
phía Cộng sản được báo cáo là 5,000 chết tại Huế và khoảng 3,000 nữa bị
giết tại các vùng phụ cận. Các cuộc giao tranh trong hơn một tháng đã
phá hủy khoảng 40 nhà cửa tại Huế khiến 116,000 lâm cảnh màn trời chiếu
đất, 5,800 thường dân bị giết hay mất tích.
Số
phận của những người mất tích dần dần được tính sổ khi khoảng 1,200 tử
thi được tìm thấy dưới 18 hố chôn tập thể bị vùi lấp vội vã. Trong 7
tháng đầu năm 1969, nhóm mồ tập thể thứ hai được phát hiện. Rồi vào
tháng chin, nhờ sự chỉ dẫn của ba cán binh VC hồi chánh, 300 tử thi được
khai quật ở Khe Đá Mài. Cuối cùng, vào tháng 11, hố chôn tập thể lớn
thứ tư được tìm thấy gần xã Lương Viên, cách Huế khoảng 15 cây số về
hướng đông. Cộng chung, gần 2,800 tử thi đã được phát hiện từ những hố
chôn tập thể này.
James
Willbanks viết rằng mới đầu tin về những vụ tàn sát tập thể không được
báo chí Mỹ loan tải rộng rãi vì họ cho rằng không đáng tin, và chỉ chú
tâm vào cuộc giao chiến đẫm máu và những tàn phá tại cố đô Huế. Cho đến
khi những hố chôn tập thể được đào lên, các cuộc điều tra mới được bắt
đầu để tìm hiểu sự thật.
Vào năm 1970, Douglas Pike, phân tích viên của Sở Thông Tin Hoa Kỳ, xuất bản tập tường trình The Viet Cong Strategy of Terror,
trong đó viết rằng ít nhất phân nửa số xác chết được đào lên tại Huế đã
cung cấp bằng cớ rõ ràng về “những vụ giết người tàn bạo: như tay bị
trói quặt ra sau lưng, mồm bị nhét giẻ, thân thể vặn vẹo nhưng không
mang thương tích (cho thấy đã bị chôn sống).” Pike kết luận rằng những
vụ tàn sát này đã được thi hành bởi những cán binh VC tại địa phương và
là kết quả của “một quyết định được lý luận và biện minh trong đầu óc
Cộng sản”.
Willbanks nhắc đến cuốn Tet! của
Ký giả Don Oberdorfer xuất bản năm 1971, trong đó thuật lại diễn tả
sống động của các nhân chứng về những gì đã diễn ra trong thời gian VC
kiểm soát thành phố Huế, gồm có những vụ hạ sát các người ngoại quốc tại
Huế, như ba bác sĩ người Đức Raimund Discher, Alois Alteoster, và
Horst-Gunther Krainick cùng bà vợ, tất cả đều dạy ở trường y khoa tại
đây, và đã nghĩ rằng họ được an toàn vì là người ngoại quốc không liên
hệ đến chính trị, nhưng đã bị VC bắt dẫn đi. Xác của họ được tìm thấy bị
vùi trong một hố cạn nơi cánh đồng gần bên. Cũng giống như vậy, hai
giáo sĩ người Pháp, Cha Urbain và Guy, được trông thấy bị bắt dẫn đi.
Sau đó xác Cha Urbain được tìm thấy với tay và chân bị trói, và bị chôn
sống. Còn xác của Cha Guy, với một viên đạn bắn vào sau ót, được chôn
cùng một hố với Urbain và 18 người khác. Các nhân chứng kể rằng đã trông
thấy Linh mục Bửu Đông, người đã làm mục vụ cho cả hai bên và thậm chí
có cả một tấm ảnh Hồ Chí Minh treo trong phòng, cũng đã bị dẫn đi. Xác
của ông được tìm thấy 22 tháng sau trong một huyệt mộ đào nông cùng với
xác của 300 nạn nhân khác.
Trong
danh sách “những tên phản động” có cả một lao công làm việc tại phòng
thông tin của chính quyền tên Phan Văn Tường. Lúc VC tới nhà tìm, ông ta
đi trốn cùng với gia đình và khi bắt được ông ta cùng với đưá con trai 5
tuổi, con gái 3 tuổi và 2 đứa cháu, VC lập tức bắn hạ tất cả và bỏ xác
trên đường phố cho những thân nhân còn lại nhìn thấy.
Trong
ngày thứ năm sau khi chiếm Huế, VC tới Nhà thờ Phú Cam, tập họp khoảng
400 đàn ông và thiếu niên. Trong số đó, vài người có tên trong danh sách
kẻ thù, vài người ở tuổi đi lính và vài người chỉ có tội là trông có vẻ
khá giả. Họ bị dẫn đi về phiá nam. Xác của những người này sau đó được
tìm thấy tại những hố chôn tập thể ở Khe Đá Mài.
Willbanks
không quên trích dẫn tài liệu của phiá VC và sách báo của các tác giả
Mỹ và Tây phương bào chữa cho tội ác của VC tại Huế, hạ giảm số nạn
nhân, thậm chí đổ tội cho phi cơ Mỹ đã dội bom gây ra những cái chết của
thường dân, và chính quyền Sài-Gòn đã bịa đặt vụ thảm sát với mục đích
chiến tranh tâm lý, kể cả cuốn hồi ký Từ Thù Đến Bạn của
cựu Đại tá VC Bùi Tín xuất bản năm 2002. Ông Bùi Tín nhìn nhận việc xử
tử thường dân đã xảy ra tại Huế trong vụ Tết Mậu Thân. Tuy nhiên, ông ta
nói rằng dưới sự căng thẳng của các cuộc oanh kích do phi cơ Mỹ thực
hiện, kỷ luật bộ đội đã bị tan vỡ. Bùi Tín giải thích rằng hơn 10,000 tù
binh đã bị bắt tại Huế, và những người quan trọng nhất đã được giải về
miền Bắc. Khi Thuỷ quân Lục chiến Mỹ phản công tái chiếm Huế, bộ đội
CSBV được lệnh rút lui về Bắc và đem theo tù nhân. Theo Bùi Tín, trong
sự hoảng loạn của cuộc rút quân, vài cấp chỉ huy đại đội và tiểu đoàn đã
bắn hạ tù binh “để bảo đảm an toàn cho cuộc rút quân”.
Còn
các “sử gia” của Đảng CSVN thì viết rằng trong cuộc tổng công kích Tết
Mậu Thân tại Thừa Thiên - Huế, các cán bộ VC đã truy lùng và bắt giữ
“những tên gian ác và các nhân viên quân sự và công chức ngụy quyền Việt
Nam Cộng Hoà”, và rằng “nhiều ổ gian ác và phản động… đã bị giết”. Hàng
trăm kẻ “có nợ máu đã bị xử tử”.
Sau
một thời gian phủ nhận không có vụ thảm sát hàng ngàn thường dân tại
Huế, Cộng sản Việt Nam đã nhận tội trước những bằng chứng hiển nhiên
không thể chối cãi. Các “tội” mà VC quy cho những nạn nhân (“những tên
gian ác”, “nhân viên quân sự”, “công chức ngụy quyền”, “phản động”, “có
nợ máu”…) là những lý do chính trị mà theo định nghiã của Toà Án Hình Sự
Quốc Tế (International Criminal Court) là những yếu tố cấu thành tội ác
chiến tranh và tội ác chống nhân loại để truy tố những can phạm, từ kẻ
lãnh đạo cao nhất đến những cấp thi hành và đồng lõa. Nhiều can phạm của
những tội ác này trên thế giới đã bị bắt, bị truy tố và bị Toà Hình Sự
Quốc Tế kết án.
Phải
chăng vì vậy mà vài kẻ liên quan đến vụ thảm sát tại Huế đã tìm cách
chối tội, như trường hợp của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Phạm
Thị Xuân Quế mà Nhà văn Nguyễn Văn Lục đã nói tới trong một bài viết
gần đây. Có nhiều bằng chứng cho thấy họ đã có mặt tại Huế trong thời
gian VC chiếm giữ thành phố và đã đóng vai trò đồng loã (chỉ điểm, dẫn
đường) trong việc lùng bắt và hạ sát các giáo sư tại Viện Đại Học Huế.
Sau
khi đọc bài “Trường Hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường” của Ông Nguyễn Văn Lục,
tôi đã hỏi ý kiến Giáo sư Nguyễn Thế Anh nhân dịp liên lạc với ông gần
đây. Giáo sư Nguyễn Thế Anh là Viện trưởng Viện Đại Học Huế khi xảy ra
biến cố Tết Mậu Thân, sau đó dạy sử tại Đại Học Sorbonne ở Paris, nay đã
nghỉ hưu. Ông Nguyễn Thế Anh cho biết đã thoát chết vì ở bên hữu ngạn
Sông Hương. Về sau, ông được nghe kể lại là có loa phóng thanh (ở bên tả
ngạn Sông Hương do VC địa phương chiếm giữ) yêu cầu “ông Viện trưởng ra
trình diện”, và những người đứng ra lãnh đạo cái ủy ban nhân dân là Lê
Văn Hảo, giáo sư Đại Học Văn Khoa (dưới quyền Viện trưởng Nguyễn Thế
Anh) và bọn sinh viên Đại Học Huế là anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng
Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân…Một tháng sau, chính Gs. Nguyễn Thế Anh
là người đã đi nhận diện tử thi của ba bác sĩ người Đức, cô vấn Trường
Đại Học Y Khoa Huế.
Tiết
lộ của Gs. Nguyễn Thế Anh phù hợp với phần tường thuật của James
Willbanks về diễn tiến của mặt trận Huế trong biến cố Tết Mậu Thân, theo
đó Trung đoàn 4 chính quy CSBV đã chiếm mạn nam (hữu ngạn) Sông Hương
của Thành phố Huế (trừ khu MACV, xem bản đồ đính kèm) ngay từ lúc hừng
đông ngày 31.1.1968 (mùng hai Tết Mậu Thân).
Vụ
thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế là tội ác chống nhân loại của Cộng sản
Việt Nam mà cộng chung lên đến hơn một triệu nạn nhân vô tội kể từ khi
cướp chính quyền tại Việt Nam.. Hồ Chí Minh, người chịu trách nhiệm lớn
nhất, cùng nhiều tay chân đã chết già, nhưng một số can phạm và đồng lõa
khác còn sống, có thể bị điều tra, truy tố và xét xử trước Toà Án Hình
Sự Quốc Tế.
Đây là công việc mà các tổ chức chính trị và nhân quyền của người Việt ở hải ngoại có thể làm.
Sơn Tùng