Được biết ngoài câu lạc bộ Huỳnh Hữu
Bạc, còn có cư xá Sĩ quan độc thân Huỳnh Hữu Bạc và đường Huỳnh Hữu Bạc
là một trong những con đường nhỏ ở trong phi trường Tân Sơn Nhất ngày
xưa.
Một người anh của tôi đã từng làm việc tại Bộ Tổng Tham Mưu gần đó thì
cho biết, Tân Sơn Nhất có 3 khu vực bao gồm: phi trường dân sự, phi
trường quân sự của Việt Nam và một khu vực thuộc về quân đội Hoa Kỳ
thường được gọi tắt là MAC-V (Military Assistance Command, Vienam). Khi
quân đội Mỹ rút về nước sau hiệp định Paris 1973 thì MAC-V được đổi
thành DAO (Defense Attaché Office) vì Hoa Kỳ chỉ còn giữ cố vấn và tùy
viên quân sự Mỹ ở lại mà thôi.
Nhân tìm hiểu về câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc, chúng tôi cũng xin kể một vài
chuyện vui buồn về đời quân ngũ căn cứ vào ký ức của một người lính
Không Quân VNCH. Hy vọng những hình ảnh ngày nào vẫn còn lưu lại trong
lòng nhiều người về một thời đã qua với nhiều kỷ niệm.
Trước năm 1975 phi trường Tân Sơn Nhất phía đường Công
Lý (bây giờ là Nam Kỳ Khởi Nghĩa & Nguyễn văn Trổi nối dài) có hai
cổng ra vào, một là cổng Phi Hùng và một là cổng Phi Long gần lăng Cha
Cả, thuộc khu vực nghĩa trang Bắc Việt nghe nói đã giải tỏa từ năm 1980.
Một người anh khác của tôi là lính Không Quân làm việc ở phi trường Tân
Sơn Nhất từ năm 1973 nên thường xuyên ra vào hai cổng nầy. Anh cho biết,
cổng Phi Hùng là cổng chính còn được gọi là cổng Huỳnh Hữu Bạc vì có
CLB Huỳnh Hữu Bạc ở gần đó. Cổng này lớn nằn trên trục lộ chính có xe
hơi ra vào thường xuyên, nghe nói bây giờ là chỗ bùng binh kế bên công
viên Hoàng văn Thụ. Thời trước năm 1975 vào đầu giờ hành chánh (khoảng 8
giờ sáng) và 6 giờ chiều cổng này luôn có nhiều xe cộ ra vô tấp nập,
riêng trong giờ hành chánh nếu chạy xe ra ngoài phải có giấy xuất trại.
Nơi đây luôn có quân đội canh gác bao gồm: Quân Cảnh, Phòng vệ
và An ninh.
Riêng cổng Phi Long thì gần Lăng Cha Cả. Cổng này còn gọi là cổng dân sự
dành cho những người đi bộ qua lại. Cổng này có hai lối đi hàng dọc,
một cho người đi vào và một cho người đi ra, có lính Quân cảnh và lính
Phòng vệ của Không Quân kiểm soát. Kế bên cổng này còn có một cổng khác
được chắn bằng barrier, thỉnh thoảng có xe hơi hay xe nhà binh ra vào.
Tại đây có hai người lính Không Quân tên là Trước và Ấu thay phiên nhau
canh gác. Khi đề cập đến những kỷ niệm vui buồn trong đời quân ngũ thì
anh tôi hay nhắc tới hai anh Quân cảnh tốt bụng đó, vì họ luôn thông cảm
và thỉnh thoảng cho anh tôi về thăm gia đình, nhất là vào những khi cấm
trại 100%.
Được biết cũng chính tại khu vực cổng Phi
Long này hồi Tết Mậu Thân 1968, cố Chuẩn Tướng KQ Lưu Kim Cương, Tư
lệnh Không Đoàn 33 Chiến Thuật (KĐ33CT) đã tử trận. Lúc đó ông đang chỉ
huy cuộc hành quân giải vây vành đai phi trường Tân Sơn Nhất. Theo tin
tức cho biết thì do sức nổ mạnh và miểng đạn B40 gần chỗ ông đứng khiến
ông bị trúng thương và tắt thở ngay tại chỗ. Sự hy sinh của ông chính là
nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Trịnh công Sơn sáng tác nhạc phẩm “Cho một
người nằm xuống” thường được ca sĩ Khánh Ly hát.
Cũng nhân nói tới phi trường Tân Sơn Nhất, đến câu Lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc
anh tôi còn nhắc đến “ngôi nhà ma”. Không biết thực sự ngôi nhà ma có
hay không nhưng mọi người hay thêu dệt chuyện ma trong ngôi nhà nầy.
Thực ra đây là một biệt thự xưa đời Pháp để lại. Bộ Tư Lệnh Không Quân
lấy ngôi biệt thự nầy dùng làm nơi tập trung khóa sinh sĩ quan phi hành
và khóa sinh kỹ thuật khi mới bước chân vào binh chủng Không Quân.
Theo lời anh tôi,những ngày đầu vào lính kỹ thuật Không Quân năm 1970,
anh tôi được tập trung tại ngôi nhà ma đó một thời gian để chờ khóa học
quân sự tại Trung Tâm huấn luyện Quang Trung. Mãn khóa quân sự, anh tôi
được chuyển về trại khóa sinh trong căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất, gần
Trung Tâm Tiếp Huyết thuộc đại đội 145. Trong trại Khóa sinh nầy có hai
ông Trung sĩ thuộc Liên Đoàn Phòng Vệ phụ trách quản lý Khóa sinh tên
Hòe và Nên. Đặc điểm của hai ông này đều là…”short man” và nổi tiếng hắc
ám, khóa sinh nào vào đây cũng đều khiếp vía. Vì thế các anh em khóa
sinh mới có bài vè như sau:
“Sài Gòn có nạn mất xe,
Khóa sinh có nạn ông Hòe, ông Nên,
Đã lùn ông lại còn kênh,
Ông phạt dã chiến anh em rên … hừ hừ”
Mỗi buổi sáng tất cả được xe GMC chở đi học Anh ngữ tại trường Sinh Ngữ
Quân đội nằm tại góc đường Lê Lai và Đinh Công Tráng. Người thầy dạy Anh
ngữ cho các khóa sinh lúc đó tên là Hedquembourg, ông là người Mỹ nhưng
không cao hơn người Việt là bao nhiêu. Ông này vui tính, ngoài giờ học
thường sinh hoạt, chụp hình chung với các khóa sinh nên được mọi người
quý mến. Cũng cần nói thêm, nếu khóa sinh vào đạt điểm Anh văn xuất sắc
thì có cơ hội tham dự khóa đào tạo Chuyên viên Kỹ thuật ở Mỹ, còn đa số
được huấn luyện trong nước.
Riêng phần anh tôi được huấn luyện khóa Động cơ Phản lực ở trường Kỹ
Thuật chi nhánh Biên Hòa do Thiếu tá Nguyễn Hữu Lãm làm Chỉ huy trưởng.
Sau khi tốt nghiệp nhờ đậu Á khoa nên anh tôi được ưu tiên chọn đơn vị
mà không phải bốc thăm. Anh tôi chọn Sư Đoàn 3 Không Quân, Liên Đoàn 43
Kỹ Thuật do Thiếu tá Phan Võ Viên làm Liên Đoàn Trưởng. Sau đó anh tôi
được điều động về làm việc tại Công Xưởng động cơ do Thượng sĩ Trần Kim
Cang và Trung sĩ nhất Sáng làm trưởng và phó Công Xưởng. Nhiệm vụ của
các anh em trong công xưởng là bảo trì động cơ trực thăng UH-1H. Trong
xưởng được chia thành nhiều toán bao gồm toán Kiểm Kỳ và toán Phi Đạo.
Toán Kiểm kỳ phụ trách trung tu động cơ trực thăng đã bay 100 giờ, toán
này làm việc theo giờ hành chánh, chúa nhật nghỉ. Còn toán Phi Đạo thì
làm 24 nghỉ 24. Toán nầy túc trực ngoài phi đạo nên mỗi khi máy bay đáp
xuống là có trách nhiệm kiệm kiểm tra xem pilot có ghi chép hư hỏng gì
về động cơ trên tờ Form để có biện pháp sửa chữa hoặc hậu phi… Cũng cần
nên biết, nhiều khi trực thăng đang bay hành quân thì bị trục trặc về
động cơ như máy chảy dầu, RPM (vòng quay phút) tăng giảm bất thường,
hoặc đang nằm lại ở một nơi nào đó thì toán Phi đạo được trực thăng chở
đến nơi để sửa chữa. Còn nếu sửa không được thì phải báo cáo xin máy bay
chinook bốc về.
Nghe nói vào thời đó các em gái hậu phương rất ngưỡng mộ các anh pilot
“hào hoa phong nhã” vì các anh nầy bay bướm, cộng thêm bộ đồ bay rất đẹp
so với các đơn vị Không Quân khác. Tuy nhiên có lẽ vì hay đi cua đào
nên các anh thường hay bị lính tác chiến ghét và lính quân cảnh bắt nạt.
Riêng các anh chàng chuyên viên kỹ thuật là lính thành phố chỉ biết sửa
chữa, bảo trì máy bay vì thế không có nét oai hùng, nên không được các
em gái ngưỡng mộ bằng. Họ cho rằng lính kỹ thuật là lính không phi hành,
chỉ biết… “bay nằm” vì phải nằm để sửa máy bay (?) nên không được các
em ngó ngàng đến. Có lẽ lúc đó bài hát “Lính thành phố” do Hùng Cường
hát thì rất đúng với tâm trạng nầy của các anh. Lời bài hát đó như sau:
“Em bảo anh là lính thành phố
Suốt thàng tháng năm sống nơi thành đô
Em vội chi chớ trách anh chi
Lính thành phố xin em đừng chê…”
Tuy là nói thế nhưng trong thực tế, toán Phi đạo hay bay test với pilot
nên cũng được cho bay thử thường xuyên. Những lúc này phi công test ngồi
ghế hoa tiêu chính, còn chuyên viên kỹ thuật ngồi ghế hoa tiêu phụ, do
đó nhiều anh chàng kỹ thuật cũng biết bay và hạ cánh an toàn chính xác,
đúng vị trí không thua gì các phi công thực thụ. Có thể nói chuyện bay
test với pilot là chuyện thường xuyên của các chuyên viên động cơ trực
thăng, vì mỗi khi máy bay gặp trục trặc thì phải sửa chữa và điều chỉnh
xong, rồi báo cho pilot biết để bay test. Nghe nói vào đêm 27.04.1975
phi trường biên Hòa bị pháo kích liên tục, pilot phải cho trực thăng cất
cánh để tránh đạn pháo kích, trong đó cũng có mấy anh chàng “bay nằm”
bất đắt dĩ trở thành “bay ngồi”. Và họ cũng hoàn thành nhiệm vụ một cách
xuất sắc để di chuyển máy bay đến nơi an toàn.
Nhân nói đến bay test thì cũng nên nói thêm về những anh chàng kỹ
thuật ít kinh nghiệm. Họ sợ nhất là những lúc bay để đo độ rung động cơ
với sự tăng giảm độ cao đột ngột, hoặc là test forcelanding dễ bị xây
xẩm mặt mày. Nhưng phải nói, vui nhất là những khi đáp xuống đất nhặt dù
chiếu sáng, hay bắt những con chim quốc không bay được vì gió mạnh của
cánh quạt trực thăng. Một điều đặc biệt khác khá “thú vị” ít người biết,
đó là những khi cấm trại 100% lính Phi đạo thỉnh thoảng có thể đem
Honda lên trực thăng và nhờ pilot test thả ra ngoài để về thăm nhà.
Những kỷ niệm bay test mà anh tôi còn nhớ và thường hay nhắc đến là đươc
nhìn thấy bầu trời quê hương trong xanh với mây là đà, bên dưới là
những cánh đồng ruộng bao la với một màu xanh bát ngát, hoặc xa xa là
những khu rừng cây thẳng tắp. Hình ảnh quê hương đó còn bao gồm những
khu gia cư với nhà cửa san sát, cùng cảnh sinh hoạt của người dân bên
sân nhà với đàn gia súc, hoặt trên đường thì xe cộ lưu thông tấp nập…
Nhưng trái ngược với hình ảnh quê huơng thanh bình đó có lẽ đau lòng hơn
hết là mỗi khi phi cơ bay ngang qua Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà, thấy
cảnh tiễn đưa những quân nhân đã anh dũng hy sinh, đền xong nợ nước.
Nhìn hàng loạt quan tài được bao phủ lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ đã
làm nhiều người không khỏi bùi ngùi và chạnh lòng nhớ đến câu thơ “Cổ
lai chinh chiên kỷ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến có ai về). Các anh
biết rằng bổn phận làm trai thời chinh chiến thì “nào ai ngại gì vì gió
sương” một khi đã chấp nhận “dâng cả đời trai với sa trường” (như lời
bài hát “Anh đi chiến dịch” của cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương), thì chuyện
hy sinh cũng là điều khó tránh khỏi.
Nhắc lại kỷ niệm năm 1971 là lúc anh tôi mới vào làm việc ở xưởng Động
cơ phi trường Biên Hòa thuộc Liên Đoàn 43 Kỹ Thuật. Đơn vị này sau đổi
thành Liên đoàn Bảo trì cấp đơn vị, có nhiêm vụ bảo trì động cơ trực
thăng thuộc các Phi đoàn 221, 223, 231, 245. Giai đoạn nầy anh tôi
thường được bay test với đại uý Trai và trung úy Thuyết thuộc Phi đoàn
231, 245. Đại úy Trai sau đó đi tu nghiệp ở Mỹ, khi trở về nước đuợc
thuyên chuyển ra Sư Đoàn 1 Không Quân Đà Nẵng và hiện đang định cư ở Mỹ
theo diện HO. Chính Đại uý Trai là ân nhân giúp anh tôi đổi về phi
trường Tân Sơn Nhất từ năm 1973 cùng các anh Tài, Dũng và Thanh. Đại uý
Trai có đến nhà thăm ba má chúng tôi nhiều lần. Trong những lúc chuyên
trò, ba chúng tôi thường khen ngợi và tỏ lòng quý mến người sĩ quan
gương mẫu nầy. Còn trung úy Thuyết nhà ở đường Nguyễn Thông cũng có về
quê tôi chơi một vài lần cùng các bạn của anh tôi.
Từ khi chuyển về phi trường Tân Sơn Nhất anh tôi làm việc tại Phi đạo
259G phụ trách bảo trì sửa chữa động cơ trực thăng UH-1H. Lúc đó trung
úy Vinh là một sĩ quan trẻ làm trưởng toán Phi đạo, Chuẩn úy Nhan là phó
phụ trách toán Kiểm kỳ. Ông Nhan xuất thân là Thượng sĩ lâu năm, ông
nổi tiếng nghiêm khắc, hay đề nghị phạt tù vì lính thường lấy xăng JP4
để chạy xe hoặc đem về nhà nấu cơm. Mỗi lần bị phạt, các anh lính nầy
hay đến nhà ông ở đường Nguyễn Cảnh Chân để năn nỉ vợ ông (là cô giáo)
xin tha, vì thế ông cấm không cho lính đến nhà ông nữa.
Cũng cần nói thêm, thời gian đó Phi đạo 259G trực thuộc Đoàn Phi đạo
(bao gồm cả chục toán Phi đạo) do Trung Úy Sanh làm Đoàn trưởng Phi đạo.
Trên Đoàn Phi Đạo là Liên Đoàn Bảo Trì do Trung Tá Hòa làm Liên Đoàn
Trưởng, đại úy Lê Quang Thọ làm Liên đoàn phó. Ở cấp cao hơn là Không
Đoàn Bảo trì Tiếp Liệu do Trung tá Lân làm Không đoàn phó. Tất cả trực
thuộc Sư Đoàn 5 Không Quân ở Tân Sơn Nhất.
Khi tìm hiểu và viết xuống những dòng chữ này, chính người viết cũng cảm
thấy khó khăn dễ nhầm lẫn về các tên đơn vị như Phi Đạo, Đoàn Phi Đạo,
Phi Đoàn, Phi Đội… Đem những thắc mắc nầy hỏi lại anh tôi thì được giả
thích như sau:
- Nếu hỏi anh làm việc ở đâu? Chỉ cần nghe nói anh làm việc ở Phi Đoàn
437 là người ta biết ngay anh là lính Bay của Phi đoàn 437. Còn nếu nghe
anh nói làm việc ở Phi Đạo 437 thì người ta biết ngay anh là lính Kỹ
Thuật của Phi Đạo 437.
- Một Phi Đoàn có một ông phi công làm Phi Đoàn trưởng và nhiều phi công
khác phụ trách bay trong Phi đoàn đó. Thí dụ như Phi đoàn 437 có nhiều
máy bay C130.
- Phi cơ nằm ngoài ụ hay trong hangar được gọi là Phi đạo. Một Phi Đạo
có một sĩ quan kỹ thuật làm Trưởng phi đạo và có nhiều hạ sĩ quan, lính
kỹ thuật phụ trách sửa chữa trong Phi đạo đó. Tất cả các Phi đạo được
tập hợp thành Đoàn Phi Đạo do Trưởng Đoàn Phi đạo làm xếp.
- Phi đạo nào bảo trì sửa chữa Phi Đoàn đó, chỉ riêng Phi đạo 259G là bảo trì sửa chữa Phi Đội 259G (biệt lập).
- Cấp số phi cơ của Phi Đoàn nhiều hơn Phi Đội.
- Cũng cần nên biết ở Việt Nam ngày xưa có 6 Sư Đoàn Không Quân: Sư Đoàn
1 KQ ở Đà Nẵng, Sư Đoàn 2 KQ ở Nha Trang, Sư Đoàn 3 KQ ở Biên Hòa, Sư
Đoàn 4 KQ ở Cần Thơ, Sư Đoàn 5 KQ ở Tân Sơn Nhất, Sư Đoàn 6 KQ ở Pleiku.
Anh tôi còn cho biết thêm lính kỹ thuật thuộc Phi Đạo 259G có nhiệm vụ
sửa chữa và bảo trì trực thăng UH-1H cho Phi đội 259G do thiếu tá Võ là
Phi đội trưởng. Trong Phi đội bao gồm sĩ quan phi hành, hạ sĩ quan Cơ
khí phi hành (cơ phi) và hạ sĩ quan xạ thủ phi hành (xạ thủ). Phi đội
259G phục vụ trong việc tải thương và chống pháo kích. Mỗi tối có hai
chiếc trực thăng, một chiếc trang bị giàn đèn soi sáng (light ship), còn
chiếc kia loại vũ trang (gun ship) được trang bị minigun và rocket. Hai
chiếc này khi phát hiện pháo kích thì bay đến soi sáng hiện trường để
xạ kích. Hàng đêm mỗi phi tuần có hai chiếc trực thăng với nhiệm vụ thay
phiên nhau không thám. Những điều này là do trung úy Phước (pilot) giải
thích với anh tôi. Anh Phước và anh tôi ngày xưa thường gặp nhau chuyện
trò vì cả hai cùng làm việc ở cùng đơn vị 259G, một người ở Phi đội,
một người ở Phi đạo. Sau này anh tôi cũng mất liên lạc với anh Phước,
giờ không biết cuộc sống ra sao. Riêng đại úy Lê Quang Thọ là người đã
dìu dắt và giúp đở anh tôi tận tình. Những ân tình này anh tôi luôn ghi
nhớ mãi và mong được bày tỏ lòng tri ân đối với người chỉ huy ngày
trước.
Sau này anh tôi được chuyển từ Phi đạo 259G qua Phi đạo 437 để bảo trì
động cơ máy bay C130. Lúc này Phi đạo 437 do đại úy Cát và Thượng sĩ
nhất Hà Bá Phong làm trưởng và phó Phi đạo, trung sĩ nhất Kiếu làm
trưởng toán Động cơ, còn Thượng sĩ nhất Linh làm trưởng ca. Trong ca của
Thuợng sĩ Linh anh tôi thuộc Toán động cơ gồm có TS1 Kiều, TS Phi,
Dương, Vinh (thường được anh em thương mến gọi là Bắc kỳ con), Hưng, Ở,
Trương Nam, Anh (ruồi), Đài, Nhi (văn thư), Lý và rất nhiều bạn bè khác…
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 anh tôi có gặp lại đại úy Cát. Ông cho
biết vừa ở tù cải tạo về. Hoàn cảnh khó khăn vì không có việc làm nên
phải chạy Honda ôm mưu sinh qua ngày. Có lẽ sau nầy ông đã đi Mỹ theo
diện HO.
Cũng theo bạn bè anh tôi cho biết vào chiều ngày 29/4/1975 nhiều anh em
trong Phi đạo 437 đã cùng lên máy bay C130 để di tản, nhưng cho đến bây
giờ bạn bè cũ vẫn không nhận được tin tức gì của các anh ấy. Nghe nói
chiếc C130 nầy đã bị bắn rơi ở Bà Quẹo sau lúc cất cánh không bao lâu
(nếu quý độc giả nào có tin tức gì thì xin vui lòng cho biết, rất cám
ơn…)
Trở lại với thắc mắc Huỳnh Hữu Bạc là ai thì anh tôi trước đây có email cho biết:
“Chuyện em hỏi anh về Câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc. Thật ra trong phi
trường Tân Sơn Nhất ngoài câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc còn có câu lạc bộ Mây
Bốn Phương Trời. Riêng đường Huỳnh Hữu Bạc là một trong những đường nội
bộ đặt tên những tiền nhân có công với đất nước, hoặc những sĩ quan
Không Quân đầu tiên đền xong nợ nước, trong đó có phi công Huỳnh Hữu
Bạc.
Theo lời kể của đại úy Thọ, nguyên là Liên đoàn phó Liên Đoàn Bảo trì
cấp đơn vị thuộc Sư Đoàn 5 Không Quân thì Huỳnh Hữu Bạc là Trung úy
Không Quân. Trong một dịp lễ kỷ niệm ngày Quốc Khánh hay ngày thành lập
Không Quân (?), Trung úy Huỳnh Hữu Bạc đã biểu diễn chiếc khu trục cơ
nhào lộn rất đẹp mắt trên bầu trời, nhưng do sơ xuất đã bay quá thấp nên
đâm xuống đất và nổ tung. Trung úy Huỳnh Hữu Bạc trở thành cố đại úy.
Hồi đó vào thời cụ Ngô. Câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc là CLB dành cho sĩ quan
Không Quân vui chơi, khiêu vũ, lính lác không có cửa vào…”
Theo một thông tin khác bằng Anh ngữ trên internet mà tôi đọc được thì:
“Mr Huynh Huu Bac was an F8F – Bearcat fighter pilot of the former
Rebublic of Vietnam Air Force, killed in action in the late ‘50s. His
name was used to name the VNAF Officers Club in Tan Son Nhat Air Base
prior to April 30, 1975”. (Huỳnh Hữu Bạc là một phi công chiến đấu thuộc
Phi đội F8F Bearcat của Không Lực VNCH, tử thương trong một phi vụ vào
cuối thập niên 1950. Tên của ông được đặt cho một câu lạc bộ sĩ quan
Không Quân ở trong phi trường Tân Sơn Nhất trước 30/4/1975).
Như vậy qua những thông tin trên chúng ta có thể kết luận, lúc sinh thời
Huỳnh Hữu Bạc là sĩ quan Không Quân nên sau khi tử nạn tên của ông được
đặt cho một câu lạc bộ của quân đội và cả tên đường trong phi trường
Tân Sơn Nhất ngày xưa. Điều này theo nhận xét của nhiều người là để
chính phủ ghi công và tưởng niệm đến những tiền nhân có công với đất
nước - những người đã hy sinh tính mạng trong lúc thi hành nhiệm vụ.
Chính vì vậy mà tên tuổi của họ sẽ được lưu truyền đến thế hệ đi sau.
Mới đây theo lời một người bà con với ông Huỳnh Hữu Bạc mà chúng tôi
quen biết thì gia đình phi công Huỳnh Hữu Bạc là người Việt gốc Hoa sinh
sống lâu đời ở Sài Gòn. Chúng tôi không biết chính xác ông có bao nhiêu
anh em, nhưng trên ông còn có một người anh tên là Huỳnh Hữu Đực. Vào
thời Pháp thuộc gia đình bên thân mẫu của ông Huỳnh Hữu Bạc thuộc loại
khá giả. Cả hai anh em ông đều học hành rất giỏi. Huỳnh Hữu Đực và Huỳnh
Hữu Bạc đã từng qua Pháp du học, sau khi tốt nghiệp, một người trở
thành kỹ sư hàng không còn một người thì trở thành sĩ quan phi công. Cả
hai đều phục vụ trong binh chủng Không Quân của Việt Nam Cộng Hòa. Một
chi tiết khác mà chúng tôi nghe được từ gia đình, đó là tình anh em của
hai ông mà có lẽ trong chúng ta ít có người biết đến. Nhân cơ hội nầy
cũng xin được đóng góp cùng độc giả khắp nơi.
Như đã nói ở trên, đúng là vào một dịp lễ
lớn, phi công Huỳnh Hữu Bạc đã cùng đồng đội biểu diễn máy bay nhào lộn
trên trời. Trong lúc biểu diễn, máy bay của ông gặp truc trặc và nổ
tung làm ông tử thương. Đau buồn thay, người anh của ông là Huỳnh Hữu
Đực lại chính là người kiểm tra an toàn chiếc máy bay đó trước lúc cất
cánh. Ông Huỳnh Hữu Đực lúc đó là kỹ sư cơ khí. Cũng chính vì tai nạn
nầy đã làm ông Huỳnh Hữu Đực ân hận suốt bao năm trường, ông cho rằng vì
ông tắc trách nên đưa đến thảm họa cho đứa em trai. Nỗi dằn vặt nầy đã
dày vò đầu óc ông cho đến lúc mất trí. Sau ngày Huỳnh Hữu Bạc hy sinh,
mọi sinh hoạt của người anh Huỳnh Hữu Đực là của một người quẩn trí.
Hàng ngày ông đi lang thang ngoài đường phố không thiết tha gì đến những
lời khuyên giải của bạn bè. Cũng theo lời người bà con thì sau tai nạn
thảm khốc đó, không chỉ một mình ông Huỳnh Hữu Đực ân hận mà ngay cả gia
đình cũng trách móc ông Đực vì đã không cẩn thận để gây cái chết cho
người em.Tình trạng quẩn trí của ông Huỳnh Hữu Đực kéo dài đến sau ngày
30 tháng 4 năm 1975 thì càng bi đát hơn.Lúc ấy có lẽ gia cảnh ông càng
trở nên túng quẫn như bao gia đình khác ở miền Nam sau biến cố 1975,
cộng thêm tuổi già sức yếu nên ông đã qua đời những năm sau đó tại Sài
Gòn. Có lẽ đó cũng là do định số an bày, hy vọng nơi cõi vĩnh hằng anh
em họ sẽ gặp lại nhau.
Mới đây anh tôi có email cho biết đại úy Lê Quang Thọ nguyên là Liên
Đoàn Phó Liên đoàn Bảo trì cấp đơn vị thuộc SĐ5KQ vừa qua đời tại Việt
Nam. Ông Thọ cũng là cấp chỉ huy của anh tôi ngày trước. Nghe nói sau
khi cải tạo về, đại úy Thọ ở nhà làm dịch vụ dịch tài liệu tiếng Anh
kiếm sống qua ngày, ông bị bịnh ung thư phổi và mất vào cuối năm 2009.
Sỡ dĩ ông không đi Hoa Kỳ theo diện HO vì thời gian học tập của ông dưới
3 năm. Tang lễ của ông có nhiều chiến hữu năm xưa đến phân ưu và đưa
tiễn. Thế là một sĩ quan Không Quân nữa đã “rụng cánh đại bàng” (xin
được dùng lời của một bài hát về người phi công mang tên Phạm Phú Quốc
đã đi vào “huyền sử ca” trước đây). Chúng tôi hiểu rằng, đại úy Thọ mặc
dù không phải là phi công nhưng với nhiệm vụ của mình, ông cũng đã từng
cùng đồng đội bảo trì không biết bao nhiêu là phi cơ để hàng ngày những
máy bay nầy an toàn cất cánh, không ngoài mục đích cao cả là bảo vệ đất
nước mến yêu. Riêng đối với anh tôi, từ nay đã mất đi một vị chỉ huy
ngày trước, cũng là một chiến hữu đã từng phục vụ dưới một màu cờ, cùng
chung sắc áo mang phù hiệu Tổ Quốc Không Gian và danh hiệu Bảo Quốc Trấn
Không.
Nhân dịp ngày 19 tháng sáu, bài viết này xin được tưởng nhớ về một quân
đội đã từng góp phần không nhỏ trong việc phục vụ và bảo vệ quê hương.
Giờ đây nhắc lại để nhận ra rằng cuối cùng rồi năm tháng cũng qua đi,
chiến tranh rồi cũng đến hồi kết thúc, và vận nước cũng đã đổi thay.
Ngôi nhà Việt Nam giờ đã đổi chủ, nhưng chắc chắn Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa (nói chung) vẫn còn sống mãi với miền Nam thân yêu, cũng như kiêu
hãnh một thời về tình Quân Dân Cá Nước. Riêng binh chủng Không Quân (nói
riêng) cũng đã kiên cường làm tròn trách nhiệm cùng những binh chủng
bạn thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không ngoài nhiệm vụ bảo vệ non
sông. Họ đã tạo nên bao chiến tích oai hùng để cùng viết nên trang QUÂN
SỬ VIỆT NAM.
Ngày nay trên internet hay báo chí khắp nơi thường hay nói tới những
chiến công hiển hách, về những kỷ niệm oai hùng của người lính phi hành,
nhưng ít ai đề cập đến những đóng góp thầm lặng của những người lính
không-phi-hành, đến trách nhiệm của những chuyên-viên kỹ-thuật ngày đêm
lo bảo trì và sửa chữa để đưa phi cơ tung cánh, không ngoài nhiệm vụ bảo
vệ bầu trời của tổ quốc thân yêu.
Riêng những sĩ quan, những phi công tài hoa và anh dũng ngày nào của
Không Quân VNCH như Phạm Phú Quốc, Lưu Kim Cương, Trần Thế Vinh v.v.. và
cả Huỳnh Hữu Bạc sẽ trở thành bất tử. Họ không những bất tử với thời
gian, mà còn bất tử trong lòng những người còn nhớ đến Việt Nam của một
thời chinh chiến.
Ngày nay nếu có đôi lúc lắng lòng nhìn lại quê hương Việt Nam, hy vọng
rằng mọi người không phải nhìn để ngậm ngùi, để tiếc thương hay là để
xót xa về sự lầm than của dân tộc… Thôi thì, xin hãy ước mong một ngày
mai tươi sáng sẽ bừng lên như lời bài hát ngợi ca anh hùng phi công Phạm
Phú Quốc ngày nào : “Xin cho thái dương soi nước Việt Nam sáng rọi muôn
đời…”
Thiên Minh
Friday, July 7, 2023
Câu Lạc Bộ Không Quân Huỳnh Hữu Bạc
Đã từ lâu chúng tôi vẫn thường nghe nói tới Câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc là
nơi sinh hoạt của các sĩ quan Không Quân thuộc Quân Lực VNCH trước năm
1975. Nghe nói, vào thời đó các ca sĩ như Khánh Ly, Kim Loan… đã từng
nhiều lần trình diễn ở đây. Ngày xưa các anh của tôi là lính nên thỉnh
thoảng có nhắc tới câu lạc bộ nầy, nhưng chỉ cho biết đó là một câu lạc
bộ giải trí của các sĩ quan Không Quân. Chính vì thế nên tôi không biết
nhiều và thường hay thắc mắc CLB ấy được thành lập từ lúc nào, lớn nhỏ
ra sao và Huỳnh Hữu Bạc là ai. Sau này lớn lên có dịp tìm hiểu thì tôi
được biết câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc ở trong phi trường Tân Sơn Nhất. Có
người còn nói đây là một câu lạc bộ sang trọng dành cho sĩ quan Không
Quân, hoặc những khách mời, khách „sộp“ vào để tổ chức party hay giải
trí, ăn uống và khiêu vũ vv…
No comments:
Post a Comment