Friday, March 9, 2018

Lính sữa

Hai mươi bảy tháng tám năm một nghìn chín trăm sáu mươi bẩy, tôi bước lên phi cơ để trở về nước sau khi mãn khóa học trực thăng tại trường bay Fort Rucker Hoa Kỳ. Mười ba tháng dài đằng đẵng trôi qua, bây giờ tôi đã thực sự trở thành một con chim non trong đàn chim Việt. Một niềm kiêu hãnh nhỏ len vào tâm tư.
Bốn giờ chiều ngày 31 tháng 8 năm 1967 tôi có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhất. Nắng chói chang, không khí oi bức, bụi bặm, ồn ào và phi trường nghèo nàn hơn nhưng lòng người mở hội. Tôi đã được sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong cái khung cảnh chậm tiến này; tâm tư tôi gắn bó với cái lạc hậu, chậm tiến này của Quê Hương. Tôi được trở lại với chính tôi, tôi thấy mình người hơn so với cuộc sống tẻ nhạt tại quân trường Hoa Kỳ.
Chín giờ sáng ngày 04 tháng 9 năm 1967 tôi trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân để được nhận những thay đổi phải có. Cặp cá được gỡ xuống để được thay thế bằng những bông mai vàng chói, cánh bay cong của Lục Quân Hoa Kỳ được thay thế bằng cánh bay của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa một giấy nghỉ phép đi kèm với Sự Vụ Lệnh đáo nhậm đơn vị mới, Phi Đoàn 213, Không Đoàn 41 Chiến Thuật. Bạn cùng khóa, cũng thày với tôi là Phạm-Ngọc-Sâm có ông cụ là Trung Úy huấn luyện viên tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung nên nó được ra Đà Nẵng, còn tôi ông cụ tôi là thợ hớt tóc vườn thành ra cũng theo nó ra Đà Nẵng luôn. Chúng tôi đều được hân hạnh trở thành Phi Công Trấn Ải
Mười ba tháng chín năm một nghìn chín trăm sáu mươi bảy tôi trình diện đơn vị mới, Phi Đoàn 213 Song Chùy. Đêm ấy địch pháo kích căn cứ nặng nề, chả hiểu để hù doạ hay chào mừng, nhưng mấy anh bạn bên kia ra tay hơi quá đáng. Không khí chiến tranh đến với tôi ngay ngày đầu tiên tôi thực sự trở thành lính nghề. Tôi sinh ra trong cái đêm bom đạn át tiếng trẻ sơ sinh ngoài miền Bắc và tôi vào đời trong tiếng hỏa tiễn xé không gian lướt ngang bầu trời. Mỗi giai đoạn của đời tôi đều được bom đạn đánh dấu nhưng cái may mắn vẫn ấp ủ, che chở tôi.
Tháng giêng bay xác định hành quân bằng những phi vụ liên lạc, chở các em gái hậu phương đi ủy lạo các các chiến sĩ ngoài tiền đồn. Phi vụ nào cũng dễ thương cả, em gái hậu phương của các trường trung học nào cũng xinh xắn, đáng yêu và có những cái tinh nghịch thật học trò. Tuổi của tôi chỉ cách tuổi học trò kia hai mươi tám tháng chứ mấy nhưng tôi thấy hình như mình có vẻ già hơn trong bộ áo bay đầy gươm giáo. Cũng nhờ những khác biệt này mà chúng tôi gần nhau hơn. Chẳng hiểu sự thân mật của chúng tôi có làm khó chịu những người lính tiền đồn hay không nhưng bản năng lính trẻ dễ làm cho tôi quên và không để ý. Ba tuần lễ liên tiếp với những phi vụ dễ thương, sự giao tiếp của tôi được mở rộng với nhiều phi vụ khác nhau, với những trường trung học khác nhau của Vùng I. Người phi công quả thật là hào hoa và quyết định chọn nghành bay bổng đúng là quyết định tuyệt vời của đời tôi. Giấc mơ thành phi công đến với tôi khi nhìn thấy hình ảnh oai hùng của phi công Pháp bên cạnh phi cơ khu trục tại phi trường Gia Lâm và bây giờ giấc mơ ấy đã trở thành hiện thực tuy có tí khác biệt, tôi bay trực thăng. Nhưng dù sao tôi vẫn là phi công và phi công quả thật là hào hoa.
Sáng mùng một Tết tôi làm hoa tiêu phó cho Trung Úy Trần-Duy-Kỳ ra Huế mang theo quà tặng của Không Đoàn cho biệt đội. Thành Phố Huế trong sương sớm sao êm đềm và thơ mộng, phía dưới tôi dòng sông Hương nữa kín đáo, nửa lẳng lơ, lững lờ như mới gọi. Tôi thấy mình thích Huế.. Hôm nay tôi đến Huế lần đầu tiên trong đời, đất thần kinh cổ kính, người thần kinh trang phục gọn gàng tươm tất giọng nói tuy có lạ tai và hơi nặng nhưng nghe thật dễ thương nhất là giọng nói của các cô bé Đồng Khánh.. Hình ảnh của mấy người bán hàng rong trong chiếc áo dài khiến tôi chợt nhớ đến khung cảnh của miền đất tuổi thơ xa lắc phía Bắc bờ Bến Hải. Thành phố không một bóng dáng ngoại nhân, điều này đã gây xúc động mạnh trong tâm hồn tôi. Tôi thấy mình thương Huế, gần Huế và Huế như quê tôi. Phải chi mẹ tôi còn sống tôi sẽ đưa mẹ tôi ra thăm Huế, một thành phố Việt Nam duy nhất còn sót lại. Trưa hôm đó tôi về lại Đà Nẵng.
Đêm mùng một rạng mùng hai Tết, địch tấn công khắp nơi ở Vùng I. Sáu giờ sáng mùng hai Tết tôi phóng lên phi đoàn ôm đồ nghề ra phi cơ đi tiếp tế Trà Kiệu. "Châu Ông Chủ", tôi và "Sinh Già" chiếc số một, Thể chiếc số hai rời phi trường lúc 7:00 sáng đi về hướng Nam; "Du Điên" với một A1 khác cất cánh phi đạo 17 với trang bị nặng ra hướng Bắc, lúc vừa cất cánh Du phát hiện độ một tiểu đoàn Việt Cộng tại Bến Đò Xu, thế là phi vụ được thay đổi. Hai khu trục làm cỏ trọn gói tiểu đoàn địch, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẵng được bình yên nhờ sự phát hiện này.
Căn cứ Trà Kiệu bị vây hãm. Đồn bị pháo kích liên miên, đạn dược thiếu hụt, chúng tôi có nhiệm vụ phải tiếp tế cho căn cứ hoả lực này. Hai chuyến đầu chúng tôi bị bắn nhưng vẫn hoàn tất; đến chuyến thứ ba đồn bị pháo kích liên miên và hai khẩu đại liên ở hai bên chân đồi bắn lên sối xả. Là hoa tiêu phó ngồi đồng tôi nhìn ánh đạn lửa liên tiếp bay đến mặt mình, tàu bị bắn, đạn trúng thùng lựu đạn, "Sinh Già" ôm vứt thùng lựu đạn ra khỏi tàu thì vừa lúc cả thùng lựu đạn nổ. Hệ thống âm thoại trên phi cơ hỏng, "Sinh Già" thò tay nắm lấy chân tôi làm dấu hiệu tàu bị bắn nặng phải rời vùng, tôi hết hồn vì cái chụp cẳng này. Phi vụ tiếp tế Trà Kiệu được quân bạn yêu cầu huỷ bỏ vì áp lực pháo quá nặng nề của địch. Về Đà-Nẵng ăn cơm trưa, đổi tàu rồi tiếp tục phi vụ tiếp tế khác cho Hội-An. Điều làm tôi ngạc nhiên là phi trường Đà-Nẵng sao yên lặng quá không một phi cơ Mỹ nào cất cánh cả. Ngày thường thì cứ năm phút là một cặp F-4 Phantom cất cánh, hôm nay tất cả đều nằm ụ. Trên trời chỉ lác đác vài anh A-1 nặng nề, lèo tèo mấy chị L-19 mảnh dẻ và mấy chú H-34 cổ lỗ sĩ. Chả hiểu chuyện gì xảy ra mà bạn hiền không cứu bồ. Tôi, tên lính sữa mới ra trường đã học được một bài học cay đắng nhất trên đời và phân vân không hiểu chúng ta có còn được người Mỹ còn coi là bạn hay không!
Xuống đến Hội-An, bất cứ một mảnh đất trống nào có thể hạ chiếc trực thăng xuống được là bị pháo kích cuối cùng chúng tôi phải đáp nhảy cóc lung tung trên mọi đường cái trong thành phố và đồng thời thông báo cho quân bạn đến lấy, tình trạng thật chán nản. Nhờ đáp nhảy cóc lung tung quân bạn đã được chứng tôi tiếp tế đầy đủ. Tình trạng cũ lại tái diễn, địch đuổi theo chúng tôi mà pháo. Nhà dân nổ tung, chúng tôi phải cất cánh để tránh thảm họa cho mình cũng như cho dân. Năm giờ chiều, tầu vừa cất cánh rời thành phố thì liền bị súng trên mấy căn lầu gần đó bắn sổi xả, người thì chẳng bị gì nhưng tầu thì rách bươm. "Du Điên" và "Hoàng Điệu" nhập cuộc khóa họng súng địch. Một vài căn phố đi theo mấy khẩu thượng liên, bom đạn quả vô tình. Trở về Đà-Nẵng, phi cơ bị rỗ bụng, phi vụ huỷ bỏ vì không tầu thay thế. Lại một việc làm thâu đêm cho phi đạo, chúng tôi khổ và họ cũng chẳng sung sướng gì. Tình huynh đệ thật đậm đà, mấy tên phi đạo rưng rưng nước mắt khi thấy chúng tôi cơm gạo xấy ôm con tàu bịnh hoạn lao vào lửa đạn rồi lại mỉm cười khi thấy chúng tôi mang con tầu đầy lỗ đạn an toàn trở về bến đậu.
Trong nguy biến, tình bạn, tình đồng đội, tình người đã được tự nhiên phát triển. Tôi mong tình thế lắng dịu để có lại một phần nào an toàn cho thân thể và đồng thời lại mong chinh chiến kéo dài để chúng tôi còn mãi mãi để ý và lo lắng cho nhau.
Sáng mùng 3 Tết, 4 chiếc H-34 cất cánh ra Huế. Đáp Phú-Bài lấy đạn dược để tiếp tế cho đồn Mang-Cá Huế, mỗi chiếc đáp được bốn lần an toàn. Trần mây khá cao, mây rải rác, chúng tôi len lỏi quanh những cụm mây để tránh tầm nhìn của địch. Bên dưới chúng tôi, mấy chiếc tàu quân vận Mỹ dương cờ Hoa cà rịch cà tàng đi lại trên sông Hương. Đạn địch tìm đến chúng tôi ở cao độ hai ngàn rưởi bộ trong khi trực thăng Mỹ lững lờ ở năm trăm bộ. Đại Úy Bùi-Quang-Chính bi bắn rơi ở Cây Số 17, Đại Úy Châu Ông Chủ bị bắn ở Toà Khâm. Chiều hôm đó trên đường về chúng tôi chỉ còn lại ba chiếc.
Về đến nhà kiểm lại tầu tôi lủng tám lỗ, tầu của Thể lủng sáu lỗ và tầu Châu Ông Chủ lủng mười tám lỗ. Thân phi cơ vá chằng cá đụp những mảnh vá không có thì giờ để sơn cho đồng mầu với thân tầu thành ra chiếc tầu như mang hình ảnh quần áo của những đứa trẻ con nhà nghèo của các câu chuyện trong Tân Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Tất cả các H-34 đều bị bệnh đầu mùa rỗ chẳng rỗ chịt.
Mùng 4 Tết ra Huế trở lại, trời xấu ghê gớm. Mưa nặng hạt trần mây 300 bộ. Low level từ Đà-Nẵng ra Phú-Bài lấy đạn dược để tiếp tế cho Đồn Mang-Cá, low level từ Phú-Bài ra biển, bay dọc theo bờ biển lên hướng Bắc đến cửa Thuận-An quẹo trái theo sông Hương hướng đến Đồn Mang-Cá. Trung Úy Nguyễn-Phú-Chính và tôi chiếc số một, Trung úy Trần-Duy-Kỳ và Đinh-Văn-Huê chiếc số hai. Hai chiếc nối đuôi nhau hụp lên hụp xuống trong mây hướng vào đồn Mang-Cá, phía dưới tầu quân vận của Mỹ vẫn trương cờ Hoa thanh thản qua lại trên sông Hương. Qua Bao-Vinh tầu tôi bị bắn, đạn phá vỡ cửa kính bên trái nơi tôi ngồi, mảnh nhựa bay tứ tung văng đầy vào người vào cổ. Cổ tôi đau rát, chắc tôi bị bắn vào cổ!. Tại sao tôi lại có thể chết sớm đến như vậy nhỉ. Trong khoảnh khắc thời gian thật ngắn ngủi, bao nhiêu mơ ước tràn ngập tâm hồn. Tôi còn quá trẻ để đi chuyến tàu suốt. Hai mươi mốt tuổi đời, hai tuổi lính, vì nhà nghèo nên vẫn chưa có người yêu, chưa hề biết hẹn hò hay thấp thỏm đợi chờ. Những mơ mộng của mối tình đầu tôi chưa hề được biết và thực tế hơn nữa là lương Thiếu Úy tôi vẫn chưa được lĩnh, thẻ lương của tôi vẫn là thẻ lương Sinh Viên Sĩ Quan, tiền lương tương đương với lương Trung Sĩ. Đời chưa trang điểm mà sao đã vội đi. Tôi len lén đưa tay lên sờ đầu rồi sờ cổ, ấn nắn từng tí một xem có tí máu nào không để cuối cùng thấy được mình vẫn an toàn. "Ngọc em bay đi", tôi vội vàng chụp lấy cần lái. Nhìn qua bên anh Chính, máu chảy ròng ròng trên bàn tay phải. Khoảnh khắc sau đó tôi phải trả lại vì anh Chính vẫn điều khiển được phi cơ. Tầu vẫn tiếp tục bị bắn. Hai phi cơ đáp đồn Mang-Cá an toàn. Phi cơ của tôi chảy dầu nặng, anh Chính bị thương nhẹ ở tay phải, tôi và cơ phi Nữu an toàn. Phi cơ anh Kỳ, cơ phi Hạnh bị một viên đạn duy nhất bắn xuyên áo giáp vào bụng, vỡ cuống gan, chết sau khi đến bệnh viện được 2 tiếng, bệnh viện cách đó 200 thước. Hạnh người cơ phi dễ thương, con nhà giầu bên Lào, có bằng tú tài 2 Pháp vì thích làm Phi Công nên về nước tình nguyện nhập ngũ, thiếu điều kiện thể chất mà vẫn thích bay bổng nên lại nộp đơn xin đi làm cơ phi. Hạnh, người chiến hữu đầu tiên trong đơn vị ra đi vì chiến cuộc, tôi bâng khuâng tức tưởi. Quanh tôi lính nhẩy dù bi thương nằm la liệt.
Ở lại Huế qua đêm trong hoàn cảnh hãi hùng, thương binh tới tấp được mang về bằng đường bộ, địch pháo kích liên miên vào đồn Mang-Cá. Hỏa tiễn 140 ly, hỏa tiễn 122 ly, cối 82 ly, B-40, thượng liên, AK-47...tôi được anh bạn thương binh Nhảy Dù phân tích cho tôi từng loại sau mỗi tiếng nổ. Thế là ngày giai đoạn nhập cuộc tôi đã có được một số vốn liếng khá về khả năng tàn phá của vũ khí địch. Bài học chua chát, bài học pha chất mặn của máu từ thân thể các chiến hữu của tôi.. Bước ngang qua ngoài kia người lính Sư Đoàn 1 Bộ Binh ngắn ngủi bên cạnh khẩu súng Garant M-1, lạc hậu trên lưng khẩu Carbin M-1. Sự thiệt thòi của họ tạo cho tôi can đảm chịu đựng. Tôi rời Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh thả bước qua Bệnh Viện Nguyễn Trí Phương.. Mưa lất phất rơi, thân thể tôi thấm lạnh. Người cố vấn Mỹ hớt hải phóng qua trước mặt tôi, trong tâm tư tôi mang ý tưởng của kẻ sát nhân. Đêm ấy địch pháo kích thâu đêm. Mùng 5 Tết trời vẫn còn xấu, nhưng có tí nắng, chúng tôi quyết định trở về Đà-Nẵng với xác của Hạnh bằng phi cơ của Trung Úy Trần-Duy-Kỳ. Chúng tôi bay phi cụ trong điều kiện phi cụ thiếu lung tung của phi cơ. Mây thấp và dầy, đến cửa Thuận An phi cơ bay low level về Đà-Nẵng. Mùng 6 Tết tôi lại bay trở lại Huế để nghe tin anh Nguyên Điền Phong Phi Đoàn 516 bi bắn rơi. Con người bay bổng thứ nhì ra đi kể từ khi tôi nhập cuộc. Tôi không quen anh Phong mà chỉ biết tiếng anh khi tôi còn đang học ở Hoa Kỳ. Tôi được nghe biết về anh vì anh đã sử dụng đèn pin cá nhân khi đèn trong phi cơ hỏng trong chuyến solo đêm tại trường bay Hải Quân Mỹ. Về nước tôi được gặp anh một lần ở Câu Lạc Bộ Trần-Văn-Thọ. Có lẽ những người tài hay vắn số. Sự mất mát của dân bay bổng chấm dứt sau cái chết của anh Nguyễn-Điền-Phong.
Tôi đã bay mười tám ngày liên tiếp với các trưởng phi cơ khác nhau. Tết Mậu Thân vì hưu chiến nên mọi đơn vị trong Quân Đội đều thiếu người. Cái Tết đầu tiên trong đời Phi Công, trận chiến đầu tiên trong đời lính, kinh nghiệm thực tiễn đầu tiên sau khi đọc quyển " Nỗi Buồn Nhược Tiểu" của Pearl Buck và sự mất mát đầu tiên xảy đến trong đời lính: sự ra đi của một người bạn, cơ phi Hạnh. Bom đạn đã cày nát mảnh đất lý tưởng của tôi, thành phố Huế. Nỗi buồn ray rứt gặm nhấm tâm hồn, thù hận len lỏi vào cách cư sử với ngoại nhân và với những người ăn trên ngồi trốc. Tôi cau có và sẵn sàng gây gỗ với tất cả mọi người không liên quan đến bay bổng và nhất là các Cố Vấn Mỹ. Tôi đau đớn nhìn quê hương bị tàn phá và nỗi đau này đã làm mất đi cái thiện trong bản ngã bình thường của con người để khiến tên tôi được gán thêm tiếp vĩ ngữ "MÁT". Ngọc Mát
KQ Trần-Văn-Ngọc 65-E2 
PĐ-213                  PĐ-241

No comments:

Post a Comment