Friday, March 12, 2021

Vui Buồn Đời bay bổng (II) - LT Phạm Khiêm

“…. Mặc dù trong các phi-vụ hàng tuần tôi vẫn gặp nhiều chuyện ly-kỳ nhưng không tiện”diết” ra đây… Đành xin hẹn kỳ khác vậy, nếu bịnh làm biếng của tôi không tái phát.!” (tháng 10/97).
Để mở đầu bài viết này, tôi tạm mượn phần kết của bài “Vui buồn đời bay bay bổng I” tôi đã viết đúng 10 năm trước đã được đăng trong báo Lý-tưởng Không-quân phát hành tháng 2 năm 1998…
Tuy rằng bịnh làm biếng vẫn còn day dưa trong người, tôi chỉ xin ráng cố gắng viết lại ba cái chuyện xe cán chó, chó cán xe, chuyện trên trời dưới đất đã xảy ra cho tôi trong suốt cuộc đời bay bổng của mình, dĩ nhiên là nhiều chuyện xãy ra trong đời phi-công 20 năm lái phản-lực chở hành khách dân sự, 3 năm làm tài xế Boeing-727 cho hảng Cargo UPS và 5 năm lái máy bay 2 động cơ, cộng 1 năm làm huấn luyện viên Pilot cho hảng Cessna bên Mỹ này, nhiều hơn là hồi bay trong VNAF chỉ có 4 năm 4 tháng.!
**********
Tôi gặp (cố) Đại-tá Đặng duy Lạc trong đêm Không Gian tại Houston tháng 11 năm 1995 và lần đó cũng là lần cuối cùng tôi gặp ông! Những lần trước gặp ổng thì chỉ chào hỏi qua loa và hỏi thăm về ông anh lớn của tôi sao không bao giờ thấy anh tôi bên Cali về đây dự Đêm Không Gian ?
Kỳ này thì ông đứng nói chuyện lâu hơn, tôi nhớ ông nói : mấy bài của mày viết tao đọc thích lắm, mà mày nhớ là ráng viết về những người bạn mình thì rất quí còn viết nhiều về mình thì đôi khi làm cho người đọc tưởng mình tự cao, tự đại hoặc khoe khoang… tao biết mày gốc Nam kỳ có gì mày nói nấy nên tao chỉ góp ý cho mày nghe vậy thôi. Ráng viết nhiều nửa nghen, mấy bài mày viết về chuyện bay bổng của mày làm tao cũng nhớ bay lắm..! Lần đó có rất nhiều anh em Pilot của các phi-đoàn A-37 ngoài Nha-trang/Phan-Rang cùng mời ông Lạc chụp hình chung với họ, ổng nói với tôi là tụi nó về đông quá tao hỏng biết mặt mũi của mấy thằng nhỏ sau này. Nhiều anh em trẻ bên A-37 đứng gần nghe ổng nói chuyện mà xưng tao và gọi tôi bằng mày thì họ cũng hơi thắc mắc, bởi vì rất ít người biết tôi, sao tự nhiêu bửa nay thấy tôi đâu lạ hoắc tới dự mà lại nghe ông Đ/t Lạc gọi tôi bằng mày và xưng tao rất là thân mật ?
Tôi biết Đ/t Lạc lúc ông còn là Đ/u. Phi-đoàn trưởng 524, thuở đó tôi còn học trung học đệ nhứt cấp trường Kỹ Thuật Nha-trang gần Cầu Đá, ông anh lớn của tôi là Th/u “Minh Sói” khóa 63D là thuộc cấp của Đ/u Lạc (Bạn bè đặt cho tên
cúng cơm vì anh tôi hơi sói đầu), bay trong phi-đoàn A-1 Skyraider này, cuối năm 1967 khi đi học A-37 khóa đầu tiên thì anh tôi cũng đi chung với Th/t Lạc. Hơn nửa Đ/t Lạc lúc ở Nha-Trang cũng biết anh tôi là con của ông Mục-sư làm giáo-sư ở trường Thần Học Tin-Lành bên Hòn Chồng nên ổng cũng có phần cảm mến anh tôi vì nếp sông đạo đạo đức của anh.(Cũng vì vậy mà các VNAF ngoài Nha-trang có khi gọi chọc anh tôi là Mục-sư Tuyên úy).Vì tình thầy trò nên khi Đ/t Lạc lên làm Không-đoàn-Trưởng KĐ 62 thì ông kéo anh tôi lên làm Trưởng phòng huấn-luyện của không đoàn 62. Còn tôi chỉ là phận tép riêu em út nên có phần ké vô trỏng vậy thôi. Bây giờ ngồi đây viết lại ba chuyện “dui buồn” này mà kiếm người khác bạn mình để viết thì cũng hơi khó, vì nó chỉ xãy ra hay do chính tôi chứng kiến, còn KQ mình bên cánh quạt (fixwing) đâu có bao nhiêu người qua đây còn đi bay lại ? ( 2 ông già kia thì cũng đã retired mấy năm trước rồi). Ngoại trừ hiện nay trong VNAF chỉ còn lại đúng 3 anh em còn trẻ bên A-37 là các cựu Th/u VNAF “Trẻ” (Mấy trự này cũng đều đã trên 5.5+ bó rồi!) như Th/uNguyễn-Châu-Phòng (Khóa 72A) Captain bay MD-11F cho UPS, Lê-Hưng (Khóa 72) Captain bay phản-lực Hawker cho 1 công ty tư nhân bên vùng Ấn-Độ và Nguyễn- chu-Mon Captain bay phản-lực Challenger tư cho một nhà băng lớn bên Oklahoma, vài năm nữa thì 3 anh em này cũng sẽ giống như tôi. Tôi viết vậy bởi vì thế hệ “trẻ” (baby boomer nay chỉ trước sau 1,2 năm thì đã ôm 6 bó rồi) của tôi coi vậy mà đã hết thời rồi, cuối tháng 12/2006 tôi cũng đã chính thức “ rì tai” bên Airlines sau 20 năm bay cho hảng US Airways .
Theo luật định hiện hành của chính phủ thì tất cả các Airline Pilot (chở hành khách hay cargo) đúng 11:59 phút EST của ngày sinh nhật 60 bắt buột phải retire! Theo luật mới thì Pilot sẽ retire ở tuổi 65 nhưng đến năm 2009 mới áp dụng; Nếu hảng nào còn xữ dụng các loại phản lực cũ như Boeing 727 hay 747-200 cần Flight Engineer (Cơ-Phi) thì các Pilot này có thể xin xuống (down grade) làm một cơ-phi nếu có chỗ trống và không bị giới hạn bởi hạn tuổi 60/65 nếu vị Pilot/Cơ-phi này vẫn hội đủ điều kiện sức khỏe. Lương hướng bị cắt giảm rất nhiều nhưng khoảng thâm niên với hảng vẫn tiếp tục cho đến khi vị Cơ-Phi/Pilot “Già” này chịu retire…
Dù biết 3 ông đàn em kia vẫn còn đi bay và mấy ỗng có riêng mấy chuyện dui buồn của mấy ổng tui đâu có biết được để mà viết về mấy ổng? Thôi thì tôi đành phải viết mấy chuyện dui buồn của đời bay bổng của mình vậy.! Nếu tôi có vô tình hay cố ý khoe khoang về tôi nhiều quá trong diễn đàn này và thỉnh thoảng cũng cả gan dám mang chính sách của “Xã hội chũ nghĩa = Xạo hết chỗ nói” xía dzô, thì xin quí đọc giả nên xem như một chuyện “bình-thường” dùm.
Trong một con số ít ỏi của vài Pilot cựu VNAF bay trong ngành hàng không bên Mỹ, xem như chỉ có một mình tôi hay viết lách khoe khoang đủ thứ chuyện, tốt cũng khoe mà xấu cũng khoe tuốt luốt… Múa gậy rừng hoang mà không sợ bị ai cùng “môn phái” phê bình, hay sửa lưng cho nên cứ ngon trớn viết tào lao, chỉ sợ quí đọc giả nghỉ là tôi thích “Nổ” quá trớn làm mất đi danh tiếng của một thời vang bóng.!. Thôi thì nay trong bụng còn dư vài ba viên pháo “Chuột”, tôi đem ra nổ luôn một lần cho thỏa mãn tự ái cá nhân của mình.!
Những chuyện trời đất tôi viết kể sau đây, chuyện bay hồi còn bên VN, chuyện bay bên Mỹ…thứ tự thời gian có thể sẽ không như ý muốn, tôi nhớ đâu viết đó.
Mấy bạn bè thân thiết của tôi nghe tôi kể chuyện bay bỗng bên xứ Mỹ này nên tụi nó xúi tôi viết bài kể cho thiên hạ nghe chơi cho dzui, chết chóc ai đâu mà sợ. Thật ra tôi không sợ ai hết chỉ ngại là mình kể dỡ quá không thiên hạ nào thèm đọc thì có.
****
Ai cũng tưởng làm Captain Airline thì chắc có nhiều quyền hạn! Thưa quí đọc giả, tôi ngồi vô phòng lái đóng cửa lại lo làm phận sự của mình, chuyện gì cũng phải thi hành đúng theo sách vở, bao nhiêu chuyện rắc rối nhỏ nhặc phía sau khoan hành khách thì đã có mấy cô tiếp-viên giải quyết, chừng nào mấy cổ bó tay rồi thì mới gọi lên phòng lái hỏi phải làm sao đây?. Trên phi-cơ vấn đề giao tế nhân sự phần lớn do cô tiếp-viên trưởng nhóm giải quyết, mấy cô này có nghiệp đoàn riêng, nên có những chuyện mà tụi tôi không nhúng tay vô được, thấy mấy bả cười cười vậy đó.. nhưng lâu lâu về đến nhà thì bị văn phòng của “Chief Pilot” gọi phone hỏi thăm thì cũng hơi phiền, hồi mới vô hảng tôi cứ nghe mấy bà già thâm niên kể cho tụi tôi nghe về mấy ông Captain già khó tính, mấy bả nói:” Mấy thằng Captain cứ tưởng tụi nó là “ông trời”. (They think they are God..!) thật ra là mấy bả muốn dằn mặt tụi tôi trước để sau này có lên cấp thì liệu hồn. Ai làm phận sự nấy, đụng vô mấy cô này phiền nhiễu lắm.
Hồi trước thì thỉnh thoảng có nhân viên an-ninh hàng- không “chìm” (air-marshall) đi theo, sau vụ 911 thì số an ninh chìm đi theo thường xuyên hơn trên các chặn đường bay dài, mấy ông này cũng có thể ra tay khi cần, khi lên máy bay thì mấy ổng đưa thẻ và giấy tờ trình cho tụi tôi biết ông ngồi ghế số mấy, thường thì hay ngồi phí sau cùng để dễ quan sát. Captain thì chẳng có quyền đuổi ai xuống khỏi máy bay hay cho phép ai đi, chỉ trừ ra các Pilot hay nhân viên FAA của chính phủ xin quá giang, hay khi phía sau ghế hành khách không còn chỗ trống cho mấy vị này.
Bên mình hồi đó ai làm tới chức Trưởng Phi-cơ thì coi mình như ông trời con, như Vua một cõi và quyền hạn thì “Dzô biên”… và có khi cũng hơi “dzô diên”!
Hồi năm 1974 tôi thường bay ra đảo Côn-Sơn một tháng 2 lần, trong số hành khách tôi để ý có 2 vợ chồng thường dân bay đi bay về rất thường xuyên, tò mò nên một hôm tôi hỏi ông chồng là ông bà làm gì ngoài này mà tôi thấy sao siêng năng đi ra đây thường quá? Được ông ấy trả lời là:”tôi làm thư-ký của tòa tỉnh Gia-định nên phải ra đây lo ba cái giấy tờ cho tỉnh, vì Đảo Côn-Sơn này nền hành-chánh trực thuộc tỉnh Gia-định nên vợ chồng tôi được biệt phái ra làm việc ở đây, Thiếu úy nghĩ coi ai mà muốn đóng đô dài hạn ở đảo này !” À, thì đi một ngày học được một sàng khôn, hiểu thêm chút đỉnh về cơ cấu hành chánh của xứ mình. Rồi cũng
trong phi-vụ Tân sơn nhứt-Côn Sơn -Tân sơn Nhứt này vị trưởng phi-cơ khả ái của tôi là ông Đ/u Tô tiến Đạt có hỗn danh là Đạt “Ống nhổ” (khóa 65A cùng khóa với Trần-thế-Vinh và Lý-Tống). Năm 1987-89 tôi thường bay ghé phi-trường Orlando 2,3 lần mổi tuần, tôi vẫn thường gọi phone thăm (cố) Chuẫn-tướng Phan-Phụng-Tiên có đến nhà thăm và ăn cơm với ông Tướng vài lần, và thăm các đàn anh anh Đ/u Đạt, anh Th/t Vinh Ốm anh Đ/uTâm Già, anh Đ/u Thuyên.
Hôm đó tôi gọi phone tính tán dóc với anh Đạt thì gặp ông già dzợ của anh Đạt bắt phone, ông cũng là Mục-sư nên tôi phải ăn nói lễ phép, ông trả lời với một giọng trung kỳ 100/100 ông nói:
- Cái thèn Đoạt bửa ni hén đi công toác ở chỗ mô nớ, chiều ni hén mới về, rồi ông cũng hỏi thăm về ba má tôi bên Cali, một hồi lâu nói đũ thứ chuyện thì không biết trong câu chuyện có gì mà ông nói:
- Chu choa cái thèn Đọat nhòa tui hén nóa dữ lém! Không uai nóa lại vơí hắn mô !. Rồi sẵn đó tôi hỏi bác biết hồi xưa trong KQ người ta gọi anh Đạt là gì không? Người ta đặc cho ảnh cái tên cúng cơm là Đạt ống nhổ, tôi nghe trong đầu dây bên kia ông nói:
- Chu choa ưa mà đẹt cho hén cái tên chi nghe ót (ác) sao mà ót dữ rứa vậy con !?.
Ông Đ/u Đạt này thì tuy mặt mày trông lúc nào cũng nghiêm nghị trông bặm trợn và kỹ luật lắm, hồi xưa ổng làm phụ tá sỹ-quan hành quân của phi-đoàn, mấy ông Th/u mới về phi đoàn, ông nào ông nấy sợ ổng như sợ cọp, thấy ổng là tụi nó né ra một bên, nhưng thật ra ổng đối xữ đàng hoàng và rất tốt bụng với các đàn em, dòm thấy mặt ổng ngầu vậy chớ một hồi rồi cũng cười hề hề, nói chuyện thường hay pha trò và có tài chọc quê thiên hạ vui lắm.. Nhứt là vô mấy cái đám cưới quen, ổng hết chọc quê cô dâu chú rễ mỗi khi đi ngang qua bàn, rồi đến chọc quê ông bà bố mẹ của cả hai bên, vui còn hơn là MC chính nửa! .Tôi biết rõ vì ổng thường cắt tôi bay chung với ổng. Chị ruột của ổng là vợ của Tr/T Lâm Quang Thi nên mỗi lần mang bà lớn đi đi về
về từ vùng I, những lần đi bay như vầy thì tôi hay né đi chỗ khác để khỏi phải chào kính mặt trời.
Những năm trước thì đi dự Đêm Không gian bên Houston tôi vẫn thường thấy ổng đi 2 người nên ổng ít diễu một tý thôi vì có “Bà” đi bên cạnh, dạo sau này không biết cái rờ mọt của ổng bị xẹp bánh nằm trên xa lộ nào mà bay giờ chỉ thấy ổng đi có một mình, mỗi lần thấy bạn cũ thì ông này hay cười cười diễu giỡn 1 câu lục bát bằng giọng bắc kỳ chữ dê (d) mà tôi nhớ hoài :
“ Dĩ dãng dễ dì dấu diếm” .!
Hồi xưa bên nhà thì còn nể nang vì quyền uy, cấp bực, sợ bị “đì”. Qua đây phương tiện truyền thông quá tân tiến nên hồi xưa, hay hồi nay có chuyện gì bí mật nay bị bật mí hết nên “dấu diếm” cái monkey gì được.!
Sau khi đáp Côn Sơn tôi ra ngoài xem thiên hạ xuống khỏi phi-cơ và xem hành khách mới, trở về Sài gòn, trong đám hành khách này có một thằng bé khoảng 12 tuổi, trên tay nó ôm một con khỉ con rất nhỏ ngồi lọt trong lòng bàn tay, tôi lại gần chìa tay vuốt ve con khỉ con này trông rất dễ thương, nó cũng làm cho tôi nhớ lại hồi học lớp đệ lục tại Nha trang tôi đã từng nuôi một chú khỉ nhỏ như con khỉ này, sau này khỉ con lớn lên tôi bắt gặp nó trèo qua nhà hàng xóm, leo vô chuồng gà đang ấp ăn cắp trứng gà ôm chạy về, tôi phải đem cho người bạn ở ngoài Xóm Bóng, vì sợ lâu ngày bị vạ lây.
Đến giờ hành khách sắp hàng lên phi-cơ, đi bằng cửa trước của C-130 cho dễ kiểm soát, vì lý do an ninh nên các cửa sau đều đóng lại. Khoảng chừng 20 hành khách về Sài gòn trong đó có thằng bé 12 tuổi này đang tươi cười hí hửng ôm con khỉ bước lên phi-cơ thì Ngài Trưởng Phi-cơ khả ái của tôi chỉ vào con khỉ nhỏ nói: con khỉ này ở lại, nó không có tên trong danh sách manifest thì không được đi …
Mặt thằng nhỏ đang hí ha hí hững ôm con khỉ leo lên cầu thang máy bay đột nhiên trở thành buồn xo, trông thấy mà tội nghiệp. Bị một ông Đ/u trưởng phi-cơ lái một chiếc máy bay vỹ-đại phán một câu ra lửa, hỏi thằng con nít nào mà không khiếp vía! Nó nhìn dáo dát tìm cách giải quyết vụ con khỉ này vì nó không biết phải giao lại cho ai đây. Ba má nó bước lên phi-cơ trước nó lo tìm chỗ ngồi nên không biết chuyện thằng bé đang gặp vụ rắc rối này. Nó lên sau ba má nó vì phải đợi kêu tên theo thứ tự ABC. Người trưởng trạm thì chỉ biết đứng nhe răng cười, cuối cùng thì nó chạy lại đàng hàng rào kẽm gai cột đại con khỉ con vô đó xong chạy trở lại bước lên máy bay tìm chổ của bá má nó.
Sau khi cất cánh ở Côn-sơn về lại Sài gòn, giửa đường tôi hỏi Đ/u Đạt sao ông khó quá vậy ông, tui thấy tội nghiệp thằng nhỏ phải bỏ con khỉ lại.
Ổng trả lời:
- chớ tao cho con khỉ đi, rủi giửa đường nó nổi cơn điên chạy cắn hành khách rồi tao bị ký củ dzô ngồi tù sao mày.?
Nói tới chuyện điên thì tôi nhớ tới 1 phi-vụ bay từ Ban Mê Thuột về Sàigòn, trong phi- vụ-lệnh ghi : Chở 36 thương bệnh binh bị bệnh “tâm trí”. Hồi đó tôi còn bay C-123, vị trưởng phi cơ là Tr/u Phan-văn-Tề (Khóa 66). Ổng nói: ê Khiêm anh lo cho mấy ông lính điên này lên phi-cơ dùm tui, tui chạy vô trong trạm kiếm mua mấy ký Cà Phê Ban-Mê- Thuộc về đặng “biếu” cho ông già dzợ tui .( Rễ KQ có hiếu với ông gìa dzợ như vậy là nhất rồi. )Tôi hỏi ông Đ/u Quân-y đi theo áp tải mấy ông lính này về TSN: Đ/u làm ơn cho ông nào điên nặng nhứt lên phi-cơ trước rồi mấy ông nhẹ nhẹ cho lên sau. Nhìn mấy ông lính này tôi không thấy mấy ổng điên chỗ nào, hay có những hành động gì đáng sợ cả, lâu lâu thì có thấy mấy ông cứ nhe răng cười cười vu vơ, nhìn trời ngó đất. Đáng lẽ vụ này tôi để cho ông áp tãi của tôi làm, nhưng muốn chắc ăn, tôi cột và xiết seat belt thật chặt cho ông điên nặng nhứt vô ghế, lộn ngược mặt trái của mặt seat belt rồi nhét dấu đầu dây bên kia xuống dưới ghế, vì tôi nghĩ già này điên số một nên chắc giả không biết mở seat belt !!?. Rồi tôi bước nhanh ra đàng sau cửa ramp để nói họ đem ông thứ hai lên tàu, tôi vừa đứng ngay cửa ramp chưa kịp nói “cho ông thứ nhì lên đi”, thì tôi cảm thấy có cái gì ấm ấm phía sau lưng, quay lại thì thấy ông điên số 1 mà tôi mới cột vô ghế đã đứng ngay sau lưng tôi rồi! Ổng nhìn tôi nhe răng cười, rồi tôi nghe ổng nói: Th/u sao đẹp chai quá Th/u? Cái đám lính”điên” đang đứng sắp hàng sau đuôi máy bay 3,4 mang nghe vậy cũng nói hùa theo với nhiều giọng có âm điệu khác nhau “… ừa phải dồi Th/u đẹp chai wá…”. Hai ông áp tãi đứng đó nghe bụm miệng cười nắt nẻ. Thú thật với quí đọc giả, phi-cơ còn nằm dưới đất mà hồn vía tôi lúc đó chưa đầy 1 giây đã cất cánh tới 9,10 ngàn bộ rồi! Rốt cục rồi tụi tôi cũng đã chở mấy ông lính điên này về tới TSN an toàn. Đến đầu năm 1973 thì tôi đã chuyển sang bay C-130, trong những phi-vụ trao trả tù binh theo hiệp định Paris bay từ Biên-Hòa sang phi-trường Lộc Ninh, trước đó mấy ngày thì (cố) Tr/t Nguyễn-Tấn-Châu (tức Châu Do-thái) đã đáp để thám sát an-phi cho phi-trường Lộc Ninh xem thử có an toàn cho C-130 Đáp hay không. Khi về tôi nghe ổng nói bên KQ mình ra lịnh là không có được ăn uống bất cứ thứ gì của tụi VC mang ra đải, bên bộ binh thấy mấy giả ngồi ăn đồ của tụi nó dọn ra tỉnh queo, nào chôm chôm, nào sầu riêng… còn phi hành đoàn mình thì ngồi dưới cánh máy bay khui mấy hộp ration “C” đồ của đế wuốc ra ăn.!
Tôi không biết những toán tù binh VC này từ đâu tới, hay từ Phú-quốc đưa về đây bằng tiện nào? Tôi chỉ thấy từng toán 60 người ngồi xếp hàng trên thềm xi-măng tại khu cargo phía đông phi-trường Biên-hòa. Tất cả đều mặc bộ áo tù màu nâu do chính-phủ cấp phát, và ngoài ra mỗi một người còn được phát cho một bộ quần áo mới cũng màu nâu, một ổ bánh mì lớn và một gói đường nhỏ. 4 chiếc C-130 của VNAF thay phiên nhau chuyên chở các toán này. Trong khi chờ đợi tôi quan sát thấy nếu trong toán đó không ai nói gì thì họ sắp hàng lên máy bay mang theo đầy đủ 3 thứ đó. Còn có toán thì khi đứng dậy họ bỏ lại bộ quần áo nhưng
đen theo ổ bánh mì và gói đường, rồi có toán chỉ mang theo gói đường nhưng bỏ lại bộ quần áo và ổ bánh mì, và có toán đứng dậy bỏ lại tất cả, chắc đây là những thứ gộc nên không xữ dụng bất cứ thứ gì của chính-quyền “Mỹ Ngụy”.
Tôi bay các phi-vụ này được 3 ngày, mỗi ngày cất cánh và đáp Lộc-ninh 3 lần. Ngày đầu tôi bay với Th/t Khưu Thái Bình ( Khóa 63) trên chiếc C-130 của Phi-đoàn 435 có số đuôi 518 và 3 chữ sơn trắng bên trên lá cờ Việt Nam là chữ HCM (danh số thuật ngữ của phi đoàn 435 bắt đầu bằng chữ HC.. rồi theo thứ tự Alfa Beta như HCA, HCB… và đến chiếc thứ 16 cuối cùng là HCP, nên HCM nằm lọt
trong đám chữ này, còn bên phi đoàn 437 thì bắt đầu bằng 2 chử GZ..).Vì vậy khi ngày đầu tụi tôi đáp ở Lộc Ninh thì mấy chú Vẹm loại gộc ra phi-trường đón tụi tôi, chỗ trại tiếp tân là cái terminal cũ, chỉ có mái che không có tường hay phòng ốc gì cả, ngoài mấy cái bàn của ban liên-hợp 4 bên ngồi để dưới trại cách chỗ phi-hành-đoàn ngồi nghỉ chờ đợi khoảng 10 thước. Tụi này phải chờ để sau khi ban liên hợp hỏi từng người ai muốn về với “Mặt trận giải phóng “ thì bước sang bên kia, ai muốn về với Chính-phủ quốc-gia thì bước sang bên này làm giấy tờ rồi trở lại máy bay để tụi tôi chở về Biên-Hòa. Trong lúc ngồi chờ đợi thì tôi nghe có mấy ông vẹm chỉ lên chữ HCM của đuôi máy bay nói : Tên của cụ Hồ chí Minh đấy mấy đồng chí ơi ! Tôi đứng phía trong nhà chờ đợi la lớn: Không phãi vậy đâu mấy ông ơi, 3 chữ đó là “ Hôi Cứt Mèo “! Mấy anh đừng có phịa hồ chí gì rồi la ó chi cho mệt!. Th/t Bình ngó tôi cười, coi bô thằng co-pilot của ông nói một câu nghe được, ổng nháy nháy mắt nói: ê bộ Th/u Khiêm không sợ mấy thằng VC này làm thịt hả?.Trong trạm chờ thì cũng có mấy phi-hành đoàn trực- thăng của VNAF bay cho ban liên-hợp nếu tôi không lầm (?) ! . Có một ông già VC ngồi đó mời tụi tôi uống nước trà, ông người miền Nam nên tôi nghe ông nói: “ Mời mấy Thầy dùng nước trà”, tôi không nhớ thằng áp tải hay cơ phi gì của tôi nó nói:-mà nước trà này mấy ông bỏ thuốc độc dô, ông dụ tụi tui uống vào chết dại hết sao?. Ông già vẫn ngồi điềm nhiên, mặt lạnh như tiềng. Một lúc sau tôi lại nghe ổng nói:
- mấy Thầy biết không, ở đây không có cái gì của Mỹ hết ! Tôi nghe ông Đ/u trực-thăng người Bắc tôi không nhớ tên, ổng liền lên tiếng, dường như ông này là sỹ-quan chiến tranh chính-trị của phi-đoàn nên tôi nghe ổng phát ngôn có nét lắm:
-Thôi đi cụ ạ !Hả cái mồn ra là tuyên truyền! Rồi ổng chỉ ra phi-đạo bằng vỹ-sắt nói :
- Cái vỹ sắt của phi-trường này là của Đảng và Bác làm chắc ?. Còn cái đinh đóng ở cái trạm này cũng cũng của Đảng làm ra luôn?. Tôi nói cho bác nghe nhá; cái vỹ sắt kia là của Mỹ, cái đinh đóng vô cái terminal này, cái mái nhà này cũng là của Mỹ nốt! Chỉ có cái mồm thối của bác là không phải của Mỹ thôi.(tui nhớ 99% nguyên văn)
Phi-trường Lộc-ninh này hồi xưa là căn cứ của Bộ-binh Mỹ, cái terminal do hảng thầu RMK xây nên vẫn còn tốt, đầu năm 1971 khi tôi mới về nước, được huấn luyện trên C-123K chung với USAF, tôi đã đáp ở phi-trường Lộc-Ninh này được 4 lần, nay 2 năm sau lại được trở lại phi-trường này trên VNAF C-130. Tôi quan sát trong cái bọn cán binh VC chạy tới lui lo trật tự hay làm “do thám” đọc tên tuổi của đám pilots ngụy này, trên ngực tên nào cũng có mang ảnh tượng nhỏ bằng đồng của mister Hồ, đứa nào không có thì tôi thấy mấy giả xõ hình trắng đen của cụ Hồ cở hình thẻ kiểm tra vô kim băng rồi mang trên ngực ra điều hãnh diện lắm.
Chở vô Lộc-Ninh thì 60 tù binh mỗi chuyến nhưng chở về thì rất ít, khi toán hồi-chánh về lại Biên-hòa thì có nhóm người bên khối Dân-vận Chiêu Hồi ra đón tiếp với các vòng hoa, biểu ngữ như “Hoan nghênh các bạn đã trở về với chính nghĩa quốc gia”.v.v..
Buổi chiều hôm sau khi chờ tới phiên bay chuyến thứ 3 trong ngày tại Biên-Hòa tôi thấy có khoảng 2 xe GMC chở một nhóm người rất trẻ khoảng 4,5 chục mạng, phía nữ mặc đồ bà ba trắng, nam cũng mặc áo sơ mi trắng, khi toán này xếp hàng ngồi ngay ngắn, có một người đi tới đi lui để ra lệnh hay đốc thúc trật tự cho nhóm, tôi tò mò bước đến gần đễ hỏi xem nhóm người này là ai, thì được một người bạn cùng khóa quân sự với tôi 9 tuần Quang-Trung, ông này bây giờ là Tr/u Quân-pháp nói đây là nhóm sinh-viên, học sinh chuyên môn đi biểu tình, phá rối trị an và họ tự cho họ là “Thành phần thứ ba” có cảm tình hay thân cộng nên bị bắt và giờ thì đòi lên Lộc-Ninh để giải quyết và bày tỏ lập- trường của họ. Người trưởng toán của đám này khi tôi tiến lại gần đọc được bản tên gắn trên ngực áo bằng plastic, khắc trên nền xanh lợt chữ trắng : Vũ Ngọc Nhạ. Chắc một số quí đọc giả còn nhớ, tên này làm cố vấn an-ninh cho Tổng- Thống Thiệu, sau bị lộ ra là của Cộng sản gài vào tận Phủ Tổng-thống và còn được làm cố vấn an ninh cho phía quốc gia. (năm 2005 tôi có xem được tờ báo nào đó trên internet nói là tên Vũ ngọc Nhạ 78 tuổi đã chết !).
Thằng bạn này thấy tôi lái C-130 thì hỏi, mày có con ông cháu cha hay sao mà được bay cái thứ này? À mà sao mày đi lính một lần với tao mà bây giờ vẫn còn mang lon Thiếu úy ?( Tôi chính-thức được lên lon Tr/u tháng 10 năm 1974). Bộ mày ba gai lắm hả ? Tôi nói con ông cháu cha cái con monkey. Tao học xong Pilot bên Mỹ họ hỏi tao muốn chọn bay thứ gì, khóa của tao học là khóa đầu tiên cho hoa-tiêu đi học A-37 sau khi xong huấn luyện bên T-28, tao không muốn lái máy bay nhào lộn nên tao chọn vận-tãi, Không quân có thứ gì cho mình học thì mình bay thứ đó, và hy vọng chính của tao là để được sang bay cho Air Việt Nam sau này. Nó đâu biết là tôi chỉ học quân sự 9 tuần ở Quang Trung rồi sang Thủ đức thêm 4 tuần sau khi gắn Alfa, Không quân lảnh về cho đi học Anh văn rồi du-học Mỹ 1 năm thành Pilot về nhà là ra đi hành quân luôn. Toán đầu tiên 8 thằng co-pilot, 6 tên còn mang Alfa lúc nhận C-123K khi Mỹ chuyễn giao đầu năm 71, đâu có ai bay thế để mà tụi tôi đi học bổ túc quân-sự giai đoạn 2 ? Thành thử bên sư-đoàn cho tụi tui được mang lon Thiếu úy, thẻ căn cước và chứng chỉ tại ngủ ghi Thiếu úy nhưng ăn lương trung-sỹ dài hạn. Hơn hai năm rưởi sau (8/1973) bên sư-đoàn làm báo cáo lên Bộ Tổng Tham Mưu là tụi tôi đã học xong giai đoạn 2 quân sự do sư đoàn tổ chức, mà thực sự từ lúc về nước là đi bay hành quân liên tù tì không có học quân-sự một ngày nào cả. Trong mấy bài viết trước tôi đã có lần nói tôi là loại “ KQ nhảy dù ! Trong đợt Việt Nam hóa: Không-Quân có khoảng 2 đại đội, sau này thành Pilot đủ loại thuộc thành phần dỡm (về quân- sự) như tôi”.
Toán người thuộc “Thành phần thứ ba “ kia gồm một số đông các nữ sinh viên coi bộ “hồ hỡi” lắm . Họ được sắp hàng lên chiếc C-130 của phi-đòan 437 do Th/t Ngô Xuân Nhựt lái. Tôi gặp Th/t Nhựt hỏi sao Th/t chở mấy cô đó tới Lộc-Ninh dzui không ? Th/t Nhựt nói dzui cái con mẹ gì, chưa ai kịp hỏi han gì ai muốn về với phía bên nào là mấy con quỉ này đã ùa chạy về với “nhân dân” cha nó rồi ! Báo hại mấy ông Canada và Nam Dương trong ban liên hợp phải rượt theo lùa đám quỉ này trở lại làm thủ tục.
Ngày cuối cùng tôi bay lên Lộc-Ninh thì thấy một đám con gái mặc quần áo bà ba trắng ngày hôm qua đứng dọc bên kia bờ rào, vừa ngoắt tay khóc mếu máo nói mấy anh ơi cho tụi em về lại Saigòn đi ! Tụi tôi cười nói với nhau, mấy con khỉ này mới về với “nhân dân” có một đêm, chắc tối ngủ bị muỗi Lộc-Ninh cắn quá chịu không nổi hay là nhớ kép “ngụy” nên bửa nay lại đòi về. Có người trong đám tụi tôi chọc quê mấy cô này nói: muốn về Sàigòn thì kêu xe xích lô đạp chở về, tụi này về Biên Hòa thôi, muốn quá giang thì nhảy rào qua đây tui cõng về cho… Tụi tôi chỉ làm nhiện vụ đưa đón, đâu có quyền hạn gì mà cho mấy cô này quá giang khơi khơi về lại Biên Hòa. Hôm qua mấy cô này đã làm giấy cam kết có ký tên là cương quyết trở về với “nhân dân” với sự chứng giám của ban liên hợp 4 bên. Bây giờ có khóc lóc cũng vô ích….
Tôi biết ba cái chuyện này đối với chúng ta hồi đó nó chả là cái thá gì cả, dĩ nhiên là trong số những Pilot C-130 hay Trực thăng đã trực tiếp bay trong các phi-vụ này thì mỗi người đều có cái nhìn khác nhau, bây giờ tôi cố moi óc viết lại không dám thêm bớt hay làm méo mó sự thật, chỉ ráng nhớ lại viết thêm chút mắm muối văn từ để nghe cho vui thôi. Tôi chỉ bay C-123K của VNAF được đúng 2 năm và C-130 đựơc 2 năm 4 tháng nhưng cũng có nhiều kỹ niệm vui buồn đứng tim khác nhau. Mùa hè đỏ lửa năm 1972 chuyện chết sống giống như chuyện giỡi chơi. Tụi tôi bay ra Đà-nẳng 4 chiếc C123K, 2 chiếc của phi-đoàn tôi là 423 và 2 chiếc của phi-đoàn 425 trong phi-cụ tiếp tế tiền đồn Bastone.
Đêm hôm trước tụi tôi và Tr/u Tạ-Huy-Kiệm (khóa 66) bước vô phòng hành quân của sư-đoàn 1 ngoài Đà-nẵng để nghe thuyết trình về tình hình an-ninh trên vùng Bastone, Vị Tr/t. mặc đồ bay xám tên Duệ cho gọi một ông Tr/u L-19 vào thuyết trình cho tụi tôi biết về hỏa lực phòng không của
VC trên vùng đó như thế nào ? Nghe ổng nói mà tụi tôi hết muốn đi bay ngày hôm sau. Ông Đ/u Thức làm phụ tá cho biết thêm là 1 phi-hành đoàn trực-thăng bị bắn cháy, đáp vào hàng rào của đồn Bastone, đã 2 tuần rồi mà bên sư-đoàn vẫn chưa lấy được xác. Cũng vào giờ phút đó tụi tôi nhận được tin 1 chiếc C-123K của phi-đoàn 425 vừa bị bắn rơi ở An Lộc, Phi-hành-đoàn không ai sống sót! ( Hôm sau tôi hay được Th/t. Nguyễn-Thế-Thân là Phi đoàn Trưởng của phi-đoàn 425 bay phi-vụ này, co-pilot là Th/u Quách-Thành-Hải cũng là bạn học cùng khóa Pilot và ở cùng phòng với tôi lúc học C-123K tại Locbourne AFB. Không đoàn 53 trong phi-vụ này còn mất thêm 2 ông Không-Hànhh-Viên kỳ cựu, một người là Đ/u Trọng người Bắc, vị kia là Đ/u Ngân… 2 vị này bay xác định hành quân định kỳ cho nhau, ông Th/s. cơ-phi già tên Hoành, người Bắc rất hiền từ ít nói, học chung khóa I, C-123K với tụi tôi bên Mỹ cũng đền nợ nước, trong hai ông áp tải chỉ có 1 ông sống sót và bị thương nặng đó là Th/s. Diêu-Chính-Thượng, hiện nay ông vẫn còn ở tại Việt Nam. Trong thập niên 60 ông Tr/s. Thượng lúc làm tháp-tùng-tử trên T-28 khi bay với người Mỹ bị trúng phòng không, ông đã nhảy dù sống sót một lần rồi, đây là lần thứ
hai ông sống sót trong một trường hợp quá hiếm hoi khi tử thần tha chết đến 2 lần!.
Ngày hôm sau 4 chiếc C-123K của hai phi-đoàn thay phiên nhau đi thả đồ tiếp tế, phi-hành đoàn tôi đợi ngoài phi-trường để bay ca buổi chiều. Khoảng 10 giờ sáng khi Tr/u Châu Đức Tánh (Khóa 66) của phi-đoàn 425 bay chuyến đầu trở về, khi đến phi-trường Đà-nẵng phải lắc cánh xin đáp vì bị phòng không bắn hư hết hệ thông vô tuyến không liên lạc
được với ai cả, chuyến thứ nhì do Tr/u Hứa hồ Thanh (khóa 66) bay chung với co-pilot là Th/u Mai (Volley). Về đến bến tôi gặp thằng Mai nhảy xuống khỏi tàu, chưa kịp hỏi han gì thì nó đã thả một câu giáo đầu chưởi thề nói “ dzô đó ban ngày mà thấy tụi nó bắn lên như pháo bông…” Phi-cơ lủng bao nhiêu lổ thì tôi không biết, vì loại C-123K thì thân hình mập và chậm chạp như con cá voi, dễ làm mục tiêu cho phòng không. Tôi không biết khoảng thời gian giữa lúc hai chiếc trước thả dù và tới phiên tụi tôi buổi chiều thì các phi- tuần A-37 có lên làm việc ở vùng đó hay không? Vì đến buổi chiều khoảng 3 giờ thì chiếc của Tr/u Kiệm và tôi bay cao độ 3 ngàn bộ vô Bastone theo sau là 1 chiếc C-123K nửa của Phi-đoàn 425 bay cao độ nào tôi không rõ. Tôi hỏi Tr/u Kiệm sao mà bay thấp dữ vậy, ông nói nửa giỡn nửa thiệt “tao
điếc đâu có sợ súng”. Tôi nhìn thấy rõ đồn Bastone trước mặt. (cố)Th/t Trần Văn Triều là Navigator cho lệnh thả sớm hay trể tôi không nhớ nhưng sau khi thả xong 4 pallet hàng Tr/u Kiệm lại cho phi cơ bay lên khoảng 8 ngàn bộ rồi còn bay vòng trên vùng đó gọi chỉ cho chiếc số 2 vô thả. Tôi không còn nhớ nhiều bởi vì lúc đó đầu óc tôi chỉ nghĩ tới phòng không và chỉ chờ để nghe bị trúng đạn. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao 2 chiếc C-123K vô thả dù buổi chiều, một chiếc bay thật thấp lại không bị trúng một viên phòng không nào cả?! Hay là bọn VC vì quá đói, đã thấy 2 chuyến ban sáng thả thực phẩm, hể không lọt vô được trong đồn thì mấy ỗng lén chui ra lượm, nên để yên cho 2 chiếc buổi chiều, đễ có thêm thực phẩm?. Về đến Đà Nẵng thì được đổ xăng để bay về TSN, chiếc nào cũng mang một số hành khách về Sàigòn, trong số hành khách thì có 2 ông Pilot trực thăng và A-37 bạn của Tr/u Kiệm, tôi nghe mấy ổng đứng nói chuyện với nhau về căn cứ Bastone, khi nghe Tr/u Kiệm nói hồi chiều nay ông bay 3 ngàn bộ vô Bastone thả dù tiếp tế, tôi nghe ông Đ/u trực thăng nói lớn:” trời đất ơi bộ mày điên sao mà bay thấp dữ dzậy, tụi tao bay 6 ngàn bộ vô vùng đó mà còn ngưởi thấy mùi Xác chết !.
Đúng một tuần lễ sau, Tr/u Tạ Huy Kiệm và nguyên phi-hành đoàn chiếc C-123K của phi-đoàn 423 đã đền nợ nước tại Cửa Việt, Quảng trị trong một phi-vụ tiếp tế cho Thủy quân Lục Chiến.
Vài tháng trước khi được chuyển qua huấn luyện trên C-130. Trong một buổi chào cờ sáng thứ Hai tại sân cờ của Sư Đoàn 5 KQ tôi được Đ/t Đinh-Thạch-On Sư đòan phó Sư đoàn 5 KQ gắn lên ngực 1 huy chương anh Dũng bội tinh với có Ngôi sao “Vàng”, còn Đ/u Lê đình Lây (Khóa 20 Đalạt lúc đó chưa lên Th/t) là trưởng phi-cơ của phi-vụ tiếp tế cho một tiền đồn bộ-binh nằm gần biên giới Cam Bốt, thì ổng lại được cùng một huy chương nhưng với ngôi sao “Bạc”. Đó là cái huy chương duy nhất tôi được nhận lãnh trong 4 năm 4 tháng phục-vụ VNAF. Sau này tôi mới biết là tuy cùng một phi-hành-đoàn bay phi-vụ bị bắn, nhưng ông Đ/u trưởng Phi-cơ già dặn đã có nhiều huy-chương quá rồi, trên phòng nhân viên đề nghị ban cho ông co-pilot huy chương có ngôi sao Vàng để khuyến khích tinh-thần… Hai ông áp-tải hôm đó cũng được lảnh huy-chương cùng với ông Th/u Không-hành-viên, còn ông cơ-phi thì được lãnh thêm một chiến thương bội tinh, nhưng được Chuẩn-tướng Tiên, sư-đoàn-trưởng gắn tại giường bệnh của bệnh xá KQ Tân- sơn-nhứt ! Vì ông Tr/s Cơ-phi này đang bị thương nằm điều trị tại đây, hơn nửa Tr/s Cơ-phi Lê quang lại là con trai của Tr/t Hoàng Chánh Văn Phòng Tr/T Minh tư lệnh KQ. Chuyện như thế này, lúc bay phi-vụ tiếp tế vào buổi chiều cho một tiền đồn phía bắc gần biên giới Miên-Việt, theo tin quân báo nói tiền đồn này tuy nằm gần biên giới, nhưng không thấy có nhiều dấu hiệu gì về những hoạt động của địch, chiều hôm đó tụi tôi mang các kiện hàng lương thực và đạn dược như những lần thả dù tiếp tế khác. Lúc trên đường bay đến tiền đồn này, nếu tôi không lầm thì nó nằm về phía bắc giữa Thiện-Ngôn và Tống Lê Chân. Khi bay ngang qua vùng Dầu Tiến thì tụi tôi được lệnh đổi sang tần số FM để liên lạc và làm việc với Họa-Mi 11. Tôi gọi và liên lạc được với Họa-Mi 11 không biết L-19 này của phi-đoàn nào. Đ/u Lây bảo tôi hỏi Họa-Mi xem thử anh chàng này đang ở đâu, vì có khi anh gọi nghe mấy anh chàng này trả lời mà mấy giả đang còn nằm dưới đất cũng có ! Sau khi tôi gọi thì nghe Họa-Mi 11 trả lời là đang bay trên vùng, nên hỏi:
- Còn tình hình an-ninh thì ra sao hả Họa-Mi ? Có phòng- không hay có Sa-7 gì không vậy?
- Yên tỉnh, yên tỉnh mấy anh cứ vô đi.
Tôi và Đ/u Lây cùng ông Tr/s Lê Quang, cơ-phi đều ráng quét mắt nhìn về hướng Bắc để tìm xem có bóng dáng chiếc L-19 nào không.
Tìm mãi cũng không thấy ai trên vùng, lúc đó tụi này từ 7 ngàn bộ đã xuống 3 ngàn bộ, ông Th/u không-hành-viên báo cáo sắp sửa đến mục tiêu, bay vào từ phía nam khoảng chừng 10 dặm tụi tôi đã thấy được cái tiền đồn nhỏ xíu vì chiều hôm đó trời quang đãng.! Theo sách vở khi người Không-hành-viên tính toán và gọi check list thả dù sẽ có những phần như là 10 minutes warning, để các áp tải mở cửa sau và chuẩn bị dao cắt dây cột hàng. Sau đó đến 3 phút rồi 1 phút.v.v..Hể khi nghe đến 3 phút là phi-cơ chui đầu lao xuống với một góc độ đáng kể ( nhưng không thể so sánh được với các khu-trục khi dive bom) Rồi 1 phút warning có nghĩa là phi-cơ phải bình phi ở cao độ để thả hàng, ở đây có nghĩa là 600 bộ cách mặt đất. Tất cả đều yên lặng để nghe ông không-hành-viên gọi 3 seconds warning, Pilot thì có nhiện vụ giữ phi-cơ bình phi, hướng bay và tốc độ đã được ông Navigator cho biết trước, co-pilot tức là tôi phải để ngón tay ngay công tắt bật đèn xanh, hể nghe ông Navigator gọi “green light” là tôi lập tức bật đèn xanh, Th/t Lây sẽ tống ga và kéo đầu phi-cơ ngóc lên như đang bay làm “airshow” Tr/s Quang cơ-phi sẽ phụ bật 2 ga xăng cho 2 máy phản lực đạt tới sức đẩy tối đa (Maximum thrust) Còn 2 vị áp-tải phía sau sẽ cắt 2 dây cột các kiện hàng ở hai bên để cho các kiện hàng nối đuôi nhau tuột ra khỏi thân phi- cơ. Tất cả các động tác này phãi xảy ra cùng một lúc theo như những bài học thả dù mà tất cả phi-hành-đoàn đều đã học và đã từng thực hành nhiều lần. Khoảng chừng 1 giây trước khi nghe ông Navigator bấm máy gọi “ Green light”, tôi nhìn thấy tiền đồn này ngay trươc mặt, lá cờ Việt Nam trên nóc đồn trông thấy rõ….thì một tràng đạn bắn từ đầu mũi đến đuôi phi-cơ, tôi không biết phi-cơ mới bị trúng đạn bằng loại súng gì nhưng tiếng nổ trong phòng lái nghe kỳ- cục và lớn lắm, khói bay mù mịt. Tôi không nhớ ai đã hoảng hốt gọi “green light, green light” đến 2 lần, nhưng tôi cũng đã bật đèn xanh ngay lúc bị trúng đạn. Th/t Lây và Tr/s Quang đều tống ga của 2 máy chong chóng và 2 máy phản- lực tối đa, các kiện hàng cũng đã ra khỏi thân phi-cơ. Th/t Lây quẹo gắt về phía phải và đem phi-cơ vọt lên đến 6 ngàn bộ rồi mới bình-phi. Sau khi bình phi trên đường bay trở về TSN. Đ/u lây bấm máy hỏi 2 ông áp tải phía sau có sao không thì nghe hai ông đều lên tiếng vô-sự và cũng báo cáo là chính giửa sàn tàu lũng nhiều lỗ cách nhau 2 tất và nhìn lên trần thấy mây xanh rõ ràng..trên trển có sao không hả Đ/u ? Đ/u Lây và Tr/s Quang cơ phi, ngồi ngay ở chính giữa cả hai đều quay sang nhìn tôi hỏi anh có sao không ? Tôi lấy tay bóp chân cẳng mình thấy không có gì cả, tôi bấm máy nói tôi OK. Ông Th/u Navigator cũng đứng chính giữa tàu, ngay sau lưng Tr/s Quang cũng bình yên vô sự. Nhưng khi tôi quay nhìn lên Tr/s Quang thì tôi thấy có một dòng máu tươi từ trong headset chảy xuống gò má mà dường như Tr/s Quang không hề hay biết. Tôi nói ê mà dường như anh bị chảy máu, tôi vừa nói vừa chỉ vào cái headset. Tr/s Quang liền đưa tay mặt lên quẹt vào dòng máu nóng đang chảy rồi xòe bàn tay ra nhìn…rồi tôi thấy Tr/s Quang gục ngay trên ghế cơ-phi sau khi thấy máu của mình. Tôi gọi đài kiểm báo Paris báo cáo là trên đường về trên phi-cơ bị trúng đạn nhiều chỗ và có người bị thương, yêu cầu báo cáo lại cho bên không-đoàn biết và xin đài kiểm soát cho tụi này vào đáp khẩn cấp xin xe cứu thương chờ dưới đất. Sau khi vào đáp ở phi-đạo 25L (trái) của TSN, phi-cơ chỉ vừa khỏi rời đường bay chính vào đường di chuyển (taxi way) thì khựng lại vì 1 bánh trước bị trúng đạn nên bị mất hơi hồi nào không hay. Xe cứu thương và cứu hỏa bao quanh chiếc phi-cơ C-123 bị nạn. Phi-hành-đoàn đi xe của không-đoàn ra đón gần cuối đầu phi-đạo, còn Tr/s Quang thì xe cứu thương mang về bệnh xá. Vài tháng sau Tr/s Quang bình phục đi bay lại và sau này cũng học thành cơ-phi của C-130 và ở cùng phi-đoàn 435 với tôi. Tr/s Quang nói là các Bác sỹ KQ của mình và Mỹ đều nói là mảnh đạn hay viên đạn vẫn nằm trong đầu sau lỗ tai bên phải, họ không cần mỗ lấy ra….Khoảng năm
1987/88 tôi có bắt liên lạc được với Tr/s Quang bên Dallas, và trong cuộc điện đàm tôi nghe ông đối thoại dường như không được “Friendly bình thường” như hồi trước . Không biết có phải do ảnh hưởng của viên đạn còn nằm trong đầu ông này không.. rồi tôi cũng mất luôn tông tích của Tr/s Quang từ dạo đó…
******
Trong những tháng cuối của năm 1974 tôi có bay một phi-vụ Test thả bom trên C-130. Nếu tôi nhớ không lầm thì đó là tháng 10/74, tôi bay với Th/t Nguyễn-Chánh-Mỹ người Huế. Di chuyển chiếc C-130 từ bến đậu sang Hot Cargo của phi-trường TSN khoảng 9 giờ sáng, bên quân cụ cho các chuyên viên sang gắn một thanh kim loại chính giửa sàn tàu, chiều cao khoảng 2 tất, chạy suốt từ đầu đến cuối và thêm một phần rời nửa trên cửa ramp. Mục đích là khi load mấy pallet đựng mấy trái bom vào sàn tàu, sau khi thả thì các pallet này sẽ chạy thẳng ra sau đuôi phi-cơ và không lệch hướng hay bị vướng kẹt vào thân tàu, như vậy sẽ đạt được độ chính xác. Hôm đó được mấy quan lớn thuyết trình tại Hot Cargo rằng, hôm nay các anh sẽ mang 16 trái bom thật, trên mỗi pallet sẽ để 4 trái bom, 2 pallet đầu sẽ có 8 trái không gắn đầu nổ, 2 pallet kế gồm 8 trái bom có gắn đầu nổ, mấy anh em áp tải cẩn thận
dùm nghen ! Đài BOB (beacon on bombing?) tại Biên Hòa sẽ dẫn mấy anh thả thử trên vùng Long-Thành, mấy anh sẽ bay cao-độ 24 ngàn bộ, tụi tôi sẽ bay trực thăng quan sát ở 6 ngàn bộ quanh mục tiêu thả. Mấy anh thả vòng đầu 8 trái bom không gắn ngòi nổ để tụi tôi xem khi đụng đất , bụi cát văng lên , tụi tôi sẽ xà xuống kiễm chứng xem độ chính xác như thế nào, nếu không thấy được thì lượt bay nhì mấy anh sẽ thả bom có đầu nổ. Bay phi-vụ ngắn này xong là tôi được về nhà nghỉ, nhưng cái mà tôi không thích trong những phi-vụ đánh thả hỏa công, là vì phải đội nón helmet có gắn Oxygen mask, trước khi mở cửa và bay trên cao-độ 24 ngàn bộ nên không quen, sau khi ông không-hành-viên là Th/t. Nguyễn-Bá-Luân (tức ông cả Tẹm) tính xong gió mái ở cao độ và hướng bay, gọi cho data xuống đài BOB, thì tụi tôi cũng đã làm xong thủ tục rồi vào trục bay, đồng thời cũng liên lạc với trực thăng đang bay vòng phía dưới, để khi sau khi thả thì 1 phút sau mấy ổng sẽ chú ý nhìn vào khu mục tiêu xem độ chính xác khi thả bom thiệt như thế nào, từ xưa nay tôi có bay thả hỏa công ngày có, đêm có, nhưng chỉ mang 48 thùng phi đựng 55 ga lông xăng đặc Napal để thả chớ chưa bao giờ mang bom thật như ngày hôm nay. Sau khi nhập vào đường bay của đài BOB, phi-hành-đoàn chỉ đợi nghe 5 tiếng bíp bíp rồi 1 tiếng te dài là tôi bật đèn xanh và thủ tục thã bom bắt đầu. Phải tốn khoảng 1 phút + cho bom rơi từ 24 ngàn bộ đến mặt đất. Sau đó trên tần số FM tôi nghe ông Th/t KQ hồi nảy đang ngồi trên trực thăng quan sát la lên với một giọng vừa vui mừng, vừa hoảng hốt “ Herky 034 ngưng thả, ngưng thả… mấy anh thả chính xác quá trời, bom không có gắn ngòi nổ mà 4 trái nổ mẹ nó hết rồi, nổ văng cha nó luôn cây cờ đỏ tụi tui mới cho lính gắn trên mục tiêu hồi sáng, thôi mấy anh bay về lại TSN đi.” Trên phi-cơ bay phi vụ này ngoài phi-hành-đoàn 6 người thì có thêm Đ/t Lý chỉ huy trường bên Quân-cụ tháp tùng quan sát. Lúc về Th/t Mỹ để cho tôi đáp.. và tôi đã làm một cái chạm bánh thật là êm như đáp trên bông gòn, tôi nghe Đ/t Lý hỏi ủa mà mình đáp chưa dzậy ? Sao ngồi đây tôi nghe êm ru. (cái này có thiệt 99.9% nên xin quí đọc giả lâu lâu cho tôi được làm “Cat praised cat long tail” một lần.!). Th/t Mỹ để Đ/t Lý ngồi ngay giữa ghế cơ-phi còn ông cơ-phi thì đứng kế bên làm phận sự. Mấy ổng quên rằng nảy giờ tôi đang ráng bậm môi, gồng mình để đáp cho thật êm, không phải vì tôi muốm lấy le với Đ/t. Lý nhưng vì 8 trái bom có gắn ngòi nổ còn nằm phía sau.! Có lẽ vì quá sung sướng khi nghe thấy sự thành công của lần test đầu tiên nên khi trở về Th/t Mỹ di chuyển về bến đậu nhưng tôi bấm intercom nói ; “Hot Cargo” Thiếu tá! Ổng hỏi cái gì? Tôi nói, mình phải giải tỏa 8 cục nợ còn nằm phía sau! Th/t Mỹ lấy tay vỗ lên tráng nói, chút xíu nửa là quên, rồi quẹo trái trên đường di chuyển North South trở qua Hot Cargo. Đồng thời cũng cho Đ/t Lý về vì xe Jeep và anh tài xế còn ngồi chờ bên đó. Ngay tối ngày hôm đó thay vì mang 48 bình xăng Napal đi thả hỏa công như những lần trước, thì 2 chiếc C-130A của VNAF đã mang 96 trái bom 250 pound có gắn đầu nổ, âm thầm cất cánh trong đêm tối bay thả trên mật khu của VC, gần vùng biên giới Miên Việt. Ngày hôm sau có người nói lại rằng đã có nghe trên đài phát thanh của VC la hoảng: B-52 của Mỹ đã trở lại VN !
Không Quân Việt Nam mình sau hiệp định Ba-lê, có 2 phi-đoàn C-130A. Mỗi phi-đoàn có 16 chiếc, nhưng con số thực thụ không bao giờ đủ 16 chiếc. Còn số phi-cơ khả dụng để bay hành quân hay huấn luyện thì có chừng 10-12(?) chiếc là nhiều. Suốt 2 năm 4 tháng khi VNAF xữ dụng C-130 thì con số tổn thất chỉ có 3 chiếc (Trước 4/75) Chiếc phi-cơ cuối cùng bị hư hại tại Biên-hòa ngày 6 tháng 4, 1975, phi cơ của phi-đoàn 435 khi bị văng ra cỏ phi-cơ số đuôi HCB 55-002, phi-hành-đoàn vô sự, chiếc thứ nhì cũng của phi-đoàn tôi 435 bị hư hại trong phi-vụ tiếp tế gạo tại Sông Bé vào ngày thứ Tư 18 tháng 12, 1974 số đuôi 56-0521 cũng do Th/t Nguyễn- Chánh-Mỹ và co-pilot là Tr/u Châu-Vĩnh-Khải (Khải sửa. Khóa 7/68) bay, khi phi-cơ này bị trúng đạn pháo kích khi đang đậu thả hàng dưới đất. Vài giờ sau khi hay tin chiếc này bị trúng pháo kích và biết được phi-hành-đoàn vô sự, tôi chờ UH-1 của VNAF mang phi-hành đoàn về đến TSN, liền chạy tới hỏi thăm thằng Tr/u Khải, thấy tay nó dính đầy máu. Sau đó được nó kể lại rằng khi bị trúng đạn cháy máy số 4 bên phải, phi-hành-đoàn và hành-khách ai cũng tìm đường thoát thân khỏi phi-cơ, nó cũng tính theo đuôi Th/t Mỹ chạy ra bằng cửa chính, nhưng nhìn ra thấy đông quá nên nó đổi ý, trở lại mở cửa sổ phòng lái phía phải chổ nó ngồi rồi phóng xuống đất.
- Nhưng sao tay mày bị chảy máu tùm lum dzậy? Tôi hỏi.- Tại tao quýnh quá, sợ máy bay nổ nên chạy ra vòng đai phi- trường, chụp đại vô hàng rào kẽm gai leo nhảy dzọt ra ngoài đường nên tao bị lủng hai bàn tay. Khi tôi nghe nó nói nó nhảy ra khỏi cửa sổ của C-130 thì liền hỏi ngay, mà mày nhảy ra cửa sổ đó đầu trước hay chân trước ? Mà bay phi-vụ Sông Bé phi-hành-đoàn đều phải mặc áo giáp …sao mày lọt qua cửa sổ đó được ?
- Tao nhỏ con nên leo ra trót lọt..mà tao nhảy đầu xuống trước hay chân xuống trước tao cũng không nhớ. Tao chỉ biết không bị gãy tay chân hay bị thương nặng là được rồi. Tôi hỏi chi tiết vì từ cái cửa sổ của C-130 đến mặt đất cũng trên 8 feet, như vậy nhãy xuống đất đâu phải là chuyện dễ. Cuối tháng 12 năm 2006 tôi có về Cần-thơ thăm thằng Khải, tôi bới lại chuyện cũ hỏi nó vụ nhảy xuống đất từ cửa sổ của C-130 Ba mươi ba năm về trước, nó vẫn khẳng định không phải một mình tôi hỏi, mà chính ông Chuẩn-Tướng Tiên, cũng đã gọi riêng hỏi nó thoát thân từ C-130 bằng cửa sổ, đầu trước hay chân trước, và câu trả lời của nó cho Chuẩn tướng Tiên vẫn là không nhớ gì cả! Có lẽ nó là cháu của Đ/t Nguyễn-hồng-Tuyền , gọi Đ/t Tuyền bằng cậu ruột nên mới được Chuẩn tướng Tiên thăm hỏi kỹ vậy.
Đúng một tuần lễ sau đó, ngay vào ngày lễ giáng sinh của năm 1974, phi-đoàn 437 lại có một phi-vụ tiếp tế gạo 3 lượt cho tỉnh Phước-Long cũng vào ngày Thứ Tư, 25 tháng 12 năm 1974. Hôm đó Đ/u Nguyễn Chuân (Khóa 65) và tôi là phi-hành đoàn túc-trực I bên phi-đoàn 435, còn bên 437 phi-
hành-đoàn do Đ/u Trần-Ngọc-Châu (Châu Râu khóa 64E) và Tr/u Võ-văn-Sáu ( Khóa 68A) là phi-hành-đoàn túc trực I. Phi-vụ tiếp tế Sông-bé tuần rồi bên Phi-đoàn 435 đã thực hiện nên ngày hôm nay khi phi-vụ bay lên Phước-Long tới phiên bên Phi-đoàn 437. Tôi không biết nhiều về Đ/u Châu Râu, chỉ biết anh từ bên C-47 chuyển sang bay C-130, đáng lẽ phi-vụ ngày hôm đó của Đ/u Nguyễn-Khắc-Hoàng (Hoàng Mun, Khóa 64E) làm túc trực I, Đ/u Châu Râu làm túc trực II, nhưng Đ/u Châu Râu đề nghị với Đ/u Hoàng Mun đổi, để bay trước cho xong ngày đó, đặng buổi chiều về không bị lỡ hẹn với với cô Khen, người tình làm “ô tét đờ le” của Air Việt Nam. Còn Tr/u Võ-văn-Sáu thì cùng khóa Pilot 71-03 chung với tôi tại Keesler. Sau đó tôi và nó cũng học chung khóa I, C-123K tại Locbourne AFB, rồi khi chuyển sang bên C-130 tôi và nó cũng cùng chung khóa I . Sáng hôm đó tôi và Tr/u Sáu đang ngồi uống Cà Phê tại câu lạc bộ cuả phi-đoàn 437, đối ngang phòng yểm trợ hành quân của sư- đoàn 5. Tôi còn nhớ rõ lắm, tụi tôi 2 đứa ngồi chỗ bàn góc cuối ngay cửa kính nhìn ra phía đài kiểm soát và Terminal của Air Việt Nam. Thằng Sáu ngồi quay lưng về phía phòng yểm-trợ hành-quân của Th/t Long heo.
Ngày hôm đó tôi thấy trên gương mặt, trên ánh mắt của thằng Sáu có một vẻ buồn vô vọng. Đây là câu nói cuối cùng tôi nghe nó nói với tôi ngay cái góc bàn đó, mặc dù bây giờ đã 33 năm, nhưng tôi vẫn còn nhớ giọng nam kỳ thật chậm rãi và gương mặt trầm buồn, đăm chiêu của nó từng chữ một:
“ Khiêm ơi! Chắc tao đi kỳ này không có dề nửa mày ơi!”. Tôi cố trấn an nó :
- Đâu có gì mà mày nói sao nghe ghê quá dậy mậy!
Vì chiếc phi-cơ của phi-vụ này bị trục trặc kỹ-thuật nên mãi đến xế trưa mới rời ụ đậu. Sau khi chiếc C-130 của phi-đoàn 437 có số đuôi GZE 55-00016 cất cánh. Đ/u Chuân chở tôi trên chiếc xe Hoda Dame màu xanh của ổng chạy sang khu gia-binh để kiếm gì ăn trưa, lúc đang ăn tôi thấy có cãm thấy có một cái gì đó thật khó tả, linh tính dường như báo cho tôi biết có cái gì không ổn đây, câu nói của thằng Sáu hồi sáng cứ ám ảnh trong trí tôi mãi! Tôi và Đ/u Chuân bàn nhau không biết kỳ này bên 437 đi có sao không, sao tình hình vùng đó không ổn mà mấy ổng cứ bắt C-130 đi như vầy thật nguy hiểm quá. Khoảng cách từ TSN đến phi-trường Sông bé chỉ có 63 Nautical Miles đừng chim bay của Bearing 017 độ từ TSN Tacan 102 (Tactical air Navigation).
Đối với tốc độ của C-130 chỉ bay khoảng 18 phút là tới, tôi và Đ/u Chuân ăn thật mau rồi trở về Phi-đoàn, trên đường từ khu gia-binh về tôi nói với Đ/u Chuân rằng, nếu mình về đến phi-đoàn mà nhìn qua bên Không-đoàn 53 không thấy cái xe Jeep nào là xem như yên tâm, còn hể thấy có 3-4 cái xe Jeep đậu là xem như có chuyện lớn. Tôi ngồi sau xe Honda đi ngang qua phòng dù rồi mới tới sân trước Không đoàn, tôi ngồi sau nhưng vẫn cố chờm tới trước ngó qua cạnh góc phòng dù xem thử có thấy cái xe Jeep nào đậu trước Không- đoàn không ! Quả nhiên 4 cái xe Jeep sắp hàng đậu ngay trước không đoàn 53, Tim tôi đập mạnh , Đ/u Chuân và tôi lật đật dựng xe Honda rồi chạy lên phòng trực của Phi- đòan, vừa thấy mặt tụi tôi là ông Th/u Tiến sỹ-quan trực ngày hôm đó nói ngay: C-130 của 437 mới vừa bị bắn rớt ở Phước Long! Không có tin tức gì về số phận của Phi-hành- đoàn. Ổng không nói Sông Bé mà nói Phước Long, dù sao thì tụi tôi đã từng bay đến Sông Bé đã quá nhiều lần nên khi ông Th/u Tiến nói Phước Long thì tụi tôi nói ừ cái phi- trường ở đó là Sông Bé. Tôi thật bàng hoàng khi nghe tin này, người đầu tiên tôi nghỉ tới là thằng Tr/u Sáu. Mới cách đây chưa đầy 2 tiếng đồng hồ, thằng Sáu bằng xương bằng thịt còn ngồi uống Cà phê nói chuyện mà giờ đây hai chữ chiến tranh đã biến nó thành người thiên cổ ! Nếu như chiếc phi-cơ GZE không bị trở ngại Kỹ-thuật, nếu như thằng Sáu bay với Đ/u Hoàng Mun biết đâu mọi việc đã xãy ra sẽ hoàn toàn khác biệt…Tình hình quân sự lúc đó quá sôi động nên tôi không biết cấp trên có nghĩ đến việc tìm kiếm và thu hồi thân xác của phi-hành đó không? Mãi đến bây giờ vẫn chưa một ai tìm được câu trả lời, phải chăng phi-vụ cuối cùng tiếp tế cho tỉnh Phước Long của VNAF C-130 đã đúng như lời bài hát Không Quân Hành Khúc.”Đi không ai tìm xác rơi !”. Sau này tôi được biết khi chiếc GZE-016 của phi-đoàn 437 đáp ở Phi-trường Sông-Bé đã không bị ăn đạn pháo kích như những lần trước, nhưng bị trúng SA-7 sau khi mới vừa cất cánh chưa được 1 ngàn bộ. Báo-cáo bên bộ binh cho biết là đã nhận được số gạo tiếp tế, điều này chứng tỏ phi-cơ đã bị bắn rơi sau khi cất cánh đúng như những lời báo cáo về không-đoàn vào buổi chiều hôm đó. Phần tôi được may mắng còn sống sót để viết lại những dòng chữ này, vì chỉ 3 ngày
hôm sau Th/t. Phan-vũ-Điện (Khoá 64) và tôi được chỉ định bay một phi-vụ bí mật ban đêm vào Lộc-ninh vào ngày Thứ Bảy 28 tháng 12 năm 1974 cũng trên chiếc C-130 mang số HCM 518 mà tôi đã viết chi tiết trong bài “Phi-vụ 2868” , đăng trong Đặc San này số tháng 3 năm 1991. Tôi xin trích lại một đoạn lời nói của cố Tr/t Lâm-văn-Phiếu phi-đoàn- trưởng phi-đoàn 435, để quí đọc giả thấy sự may mắn của phi-hành-đoàn tụi tôi:
“ … hồi nảy sau khi mấy anh em cất cánh đi rồi.. .ngập-ngừng một lúc ông nói tiếp “ tôi nghỉ là chắc chẳng bao giờ tôi còn gặp lại mặt mấy anh em nửa!”. Nảy giờ tôi lại đằng Chùa đọc kinh cho mấy anh em đi về được bình-an, chừng nghe trên máy Motorola của KĐ báo là 518 đã về đáp an-tòan tôi mừng quá ra đón mấy anh đây.!”
******
(Còn tiếp..)

Thursday, March 11, 2021

PHÂN ƯU Đại úy Không Quân Phan Tấn Thành PD213, PD233

PHÂN ƯU

Được tin buồn

Đại úy Không Quân Phan Tấn Thành

Pháp danh Minh Đạt

Cựu Hoa tiêu Phi Đoàn Song Chùy 213

Cựu Trưởng phòng Huấn luyện Phi Đoàn Thiên Ưng 233

Cựu Hội phó Nội vụ Hội Ái Hữu Không Quân

Việt Nam Cộng Hòa Miền Trung California

Đã bay phi vụ cuối cùng vào ngày 5 tháng 3 năm 2021

tại tư gia, Stanton, California USA

Hưởng thọ 73 tuổi

Chân thành chia buồn cùng bà Phan Tấn Thành

 tang quyến.

Nguyện cầu Hương linh Không Quân Phan Tấn Thành

 sớm vãn sanh nơi Miền Tây Phương Cục Lạc

Toàn thể nhân viên Phi Đoàn Thiên Ưng 233

ĐỒNG THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

 Anh Thành đứng đầu bên trái
Mới ngày nào chúng mình cùng họp nhau lại để tiễn đưa người bạn về miền miên viễn xa xăm, nay anh ra đi để lại bao thương tiếc cho gia đình, bạn bè, chiến hữu của anh. 
Anh đã làm tròn bổn phận của chàng trai nước Việt, anh đã đâng trọn tuổi trẻ trên vùng trời của đất nước thân yêu ngày nào. Kính xin ơn trên ở cùng , bảo bọc và an ủi cho chị Thành cùng toàn thể gia đình trước sự chia ly nầy
Mong anh an nghỉ.

Gia đình Trần Ngọc Thạnh , Huỳnh Xuân Thu  , Đặng Quỳnh, Trần Vê PĐ 219

Wednesday, September 2, 2020

NIỀM ĐAU LOÀI CHIM SẮT (Cơ phi Trần Văn Điệu PĐ231 SĐ3KQ)

 

Vài hàng gởi lên cho nhớ thương đầy vơi ,kỷ niệm còn trong ta hay chết theo ngày tháng!!
Thân nhớ PĐ231và các bạn K5/69CP
**********
Hợp đoàn bốn chiếc trực thăng từ từ cất cánh từng chiếc một theo sau là hai chiếc guns. Đó là hình ảnh quen thuộc mà những năm đầu của thập niên 70 chúng ta thường thấy trên bầu trời Vùng lll chiến thuật / Sư Đoàn III KQ Biên Hòa. Phi đoàn 231 Lôi Vân hằng ngày cất cánh bay khắp vùng Chiến thuật.
Lỡ vận thời cơ năm 1968, sang năm 1969 thì lệnh tổng động viên được ban hành và thêm vào đó bọn vô thần cộng sản đã vi phạm hiệp định ngưng bắn vào dịp tết Mậu Thân nuốt đi lời hứa và tổ chức một cuộc tổng tấn công qui mô vào các thành phố lớn ở miền Nam Việt Nam. Tổ quốc lâm nguy thất phu hữu trách, thế là tất cả thanh niên miền Nam đều phải lên đường nhập ngủ chỉ trừ những trường hợp đặc biệt thì được hoãn lại.
Anh em chúng tôi 396 người có cùng một chí hướng không hẹn mà gặp tại cổng Phi Long Tân Sơn Nhất để gia nhập vào binh chủng không quân ngành cơ khí phi hành. Ngành cơ khí phi hành này thật là mới mẻ đối với chúng tôi vì đây là lần đầu tiên không quân tuyển mộ từ dân sự, gọi tắt là Cơ Phi, một cái tên nghe vui tai và rất lạ, thật ra thì không ai giải thích cho chúng tôi biết nhưng vì 2 chữ phi hành đã khiến chúng tôi hăng hái nộp đơn và chờ đợi kết quả.
Mãi về sau này trong những ngày học quân sự ở Phòng huấn luyện KQ Biên Hoà tôi có nghe được vài lời phê bình nào là : các anh điếc không sợ súng hoặc là các anh là những người “tháp tùng tử “... tôi tự nhủ thầm kệ nó lỡ leo lưng cọp rồi thì sao, xem cái chết như thế nào ! Không phải ông bà ta thường nói sống chết có phần, trời kêu ai nấy dạ!
Đến Tây Ninh khoảng 09:00 sáng hợp đoàn đáp xuống Trảng-lớn nơi đặt Bộ chỉ huy tiền phương cho cuộc hành quân vượt biên sang lãnh thổ Campuchia. Thời đó quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đang ở thế thượng phong nên thường có những cuộc hành quân tiến sát vào sào huyệt của cộng quân đang ẩn mình nơi đó.
Khoảng nửa giờ sau thì Tr/u Lộc "mèo" briefing trở ra đưa ngón tay trỏ lên và quay vòng vòng đó là dấu hiệu cho hợp đoàn quay máy và chuẩn bị cất cánh. Ba chiếc kia thì tôi không biết bay phi vụ gì nhưng chiếc của anh em chúng tôi thì có nhiệm vụ đi chở tử thi của các chiến sĩ BĐQ biên phòng đang đóng quân ở đồn điền Krek, nghe đến đây tôi thầm nghĩ phi vụ này chắc không được thơm lắm. Trong những chuyến hành quân khác hoặc đi phi vụ liên lạc thì thơm hơn có khi được đi ăn trưa chung với các vị sĩ quan bộ binh tiểu khu, có khi thì đậu tàu ở Trảng Lớn nhờ các anh bộ binh tiểu khu chở ra Tây ninh ăn cơm trưa với món canh chua cá kho tộ thật ngon mà đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ. Hợp đoàn đã lấy được cao độ an toàn và nhắm hướng tây bắc trực chỉ, tàu tôi có thiếu úy Nguyễn Tấn Phát ngồi hoa tiêu chánh , Th/u Quang hoa tiêu phó, xạ thủ Trương Anh Dũng và tôi cơ phi Điệu.
Tiếng cánh quạt vỗ nghe phành phạch từng cơn gió đập vào làm phi cơ hơi rung nhẹ. Thấp thoáng trước mặt phi trường Thiện Ngôn đã hiện ra qua làm mây mỏng, nói là phi trường nhưng thật ra là một trạm xăng dã chiến để các trực thăng hành quân refuel, qua khỏi Thiện Ngôn được 10 phút thì trời đang trong sáng bổng có những đám mây đen từ từ bao phủ khắp vùng làm tôi hơi chột dạ vì nếu mưa to kéo đến lúc nầy thì công việc tải thương đã khó khăn sẽ trở nên khó khăn và nguy hiểm hơn.
Sau khi liên lạc được với đơn vị bạn ở dưới, trực thăng chúng tôi vội vàng đáp xuống bên ngoài hàng rào của đồn nơi các lính đã chờ sẵn vội vàng ném lên năm cái poncho ướt đẫm nước mưa rồi họ phóng nhanh xuống lại các giao thông hào đã được đào sẵn, nhìn dáng điệu của anh em binh sĩ như vậy tôi đoán là căn cứ đang bị pháo kích hay tấn công gì đó!
Phi cơ chúng tôi liền cất cánh, mấy xác anh em được gói trọn trong poncho và cột chặt hai đầu nhưng mùi hôi thối vẫn bốc lên nồng nặc chắc chết đã lâu. Mưa vẫn còn nặng hạt và chiếc trực thăng cất cánh không được bao lâu thì tôi nghe có nhiều loạt súng bắn lên từ bên dưới các lùm cây, anh Phát vội vàng nghiêng tàu về phía bên Dũng để Dũng trả lời với quân địch bằng M-60, đạn nổ cốc cốc cốc....tạch tạch tạch ....tiếng súng ẠK xen lẫn họng đại liên của Dũng vang lên ầm ī như pháo Tết, con tàu nghiêng qua phải rồi nghiêng qua trái có lẽ anh Phát đang cố gắng bay như thế để tránh đạn nhưng có lẽ địch quân quá đông nên con tàu nhỏ bé không thể nào vượt thoát khỏi lằn đạn của địch quân, mãnh hổ nan địch quần hồ, nước gáo không dập được lửa muôn phương.
Nhiều tiếng bụp bụp vang lên trên thân tàu có lẽ tàu đã bị trúng đạn, nhìn lên bảng phi cụ tôi thấy đèn đỏ nổi lên rất nhiều, thôi thật rồi tàu trúng đạn quá nặng. Một cảm giác sợ hãi chợt đến với tôi không biết liệu tàu có bay được ra khỏi vùng kiểm soát của địch hay không, và thì chuyện gì đến sẽ đến.
Giờ thì tôi đã thấy một khoảng trống trước mặt, với tài khéo léo và kinh nghiệm sẵn có khi anh còn bay ở Phi đoàn 213 Đà Nẳng và những cuộc hành quân Hạ lào mà anh từng tham dự qua, anh Phát đã đem con tàu xuống khoảng đất trống một cách an toàn sau khi cày một khoảng khá dài trên mảnh đất ruộng đầy nước ! Hú hồn ! Thoát chết ! Cám ơn Trời, tạ ơn Chúa! Cám ơn anh Phát đã cứu mạng tụi tôi ! Khi con tàu đã nằm yên trên mặt đất thì động cơ bắt đầu phát hỏa, anh Phát, anh Quang và Dũng đã chạy ra khỏi tàu, riêng tôi vì cú đáp quá mạnh nên tôi lăn đùng lên trên những poncho bao lấy thân xác anh em, lay quay mãi một lúc tôi mới thoát ra được khỏi tàu thì thấy các anh đang chạy đàng trước, tôi cố gắng chạy theo thì bất chợt một tiếng nổ bùng vang lên, nhìn lại thì con tàu đang cháy dữ dội!
Tội nghiệp cho năm thân xác anh em trên tàu lại bị chết thêm một lần nữa, thật đúng với những dòng nhạc mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết người chết hai lần thịt xương nát tan ! Chưa hết cơn bàng hoàng thì từ trong bìa rừng nhiều loạt súng AK nổ vang rền và theo đó là nhiều tiếng hò hét vang lên ”bắt nó, bắt nó “ của bọn cộng phỉ vừa chạy vừa bắn khi thấy máy bay đã bị cháy, không ai bảo ai mọi người đều nằm xuống để tránh đạn theo phản ứng tự nhiên và bò đi trong đám cỏ tranh cao khỏi đầu người, trong cơn hốt hoảng và mất bình tĩnh tôi đã bò đi lạc các anh một khoảng khá xa, lúc đó thì bọn lính Bắc Việt đã đuổi theo kịp và bắn nhiều phát súng để hâm dọa tinh thần, biết không thể nào tiếp tục bò thêm được nữa tôi liền chui đại vào một bụi cây rậm rạp trước mặt để ẩn trốn, khi đó tôi nghe chúng hét to “ đứng dậy, đứng dậy ... dơ tay lên, dơ tay lên”, và một tên chửi địt mẹ ba thằng Mỹ còn một thằng nữa đâu rồi... có lẽ chúng tưởng tất cả chúng tôi đều là người Mỹ.
Lúc đó tôi cảm thấy rụng rời vì biết rằng ba anh đã bị bắt, bất chợt một tên tay ghì chặc khẩu AK ở tư thế chiến đấu, hắn vừa đi vừa bắn vào các lùm cây để tìm tôi nhưng may mắn thay lùm cây tôi đang trốn không bị hắn bắn vào nếu không thì tôi đâu còn có giây phút này ngồi đây để viết lại những dòng chữ này. Âu cũng là số mạng hay nói đúng hơn là được Trời Phật che chở hay Chúa Mẹ phù hộ .
Lúc đó có hai phi tuần khu trục đang lượn vòng trên trời làm cho hắn chùng bước không đi tìm nữa và chạy theo đồng bọn biến mất vào rừng sâu mang theo ba anh em phi hành đoàn bỏ lại đây một tên dở khóc dở cười không biết phải làm gì trong lúc này? Sau này các anh đã được trao trả tù binh vào năm 1973 anh Phát thì hiện đang định cư tại Mỹ, còn anh Quang và Dũng thì tôi không biết tin tức, cầu mong cho các anh được bình an và khỏe mạnh! Ôi Không quân giờ đây ta mới biết, mộng mây trời đã giết chết cuộc đời ta!
Ngồi yên trong lùm cây một lúc khá lâu tất cả đã trở về trong yên lặng cái yên lặng nguyên thủy của rừng già và giờ đây lại thêm một sự yên lặng của chết chóc và cô đơn ,trời đã dứt hẳn cơn mưa mặt trời đã loé lên những ánh nắng chói chang gay gắt vào một vùng không gian vừa xảy ra một chấn động trong tôi không một ai biết chỉ riêng mình tôi. Cái nắng hăng hắc pha lẫn với mùi hơi nước ẩm ướt của cơn mưa vừa qua đi tạo ra một cảm giác khó chịu và ngộp thở.
Đợi một lúc lâu tôi từ từ chui ra khỏi bụi rậm một cách khó khăn mà không hiểu sao lúc chui vào thì lại quá dễ dàng, nhìn xung quanh một lần nữa cho chắc ăn tôi chầm chậm bước đi giữa tiếng rì rào của cây rừng ,cởi vội bộ đồ bay đã ướt vì trận mưa to và lúc bò trên ruộng nước tôi cuộn chung với đôi giày sô,lúc đó bổng nhiên tôi nghe ngưa ngứa dưới chân nhìn lại thì hỡi ôi một con đỉa to gần gan tay đang treo lủng lẳng nơi ống chân phải, tôi vội túm lấy nó và ném đi thật xa, ghê thật, đó là loại đỉa mà dân mình gọi là đỉa trâu vì cái miệng của nó rất to. Bây giờ tiếp theo là tôi phải làm gì đây, không có bản đồ, không có địa bàn, không có vũ khí trong tay phòng thân, chung quanh chỉ toàn rừng là rừng.
Ký ức tôi lại hiện về những buổi chiều sau khi đi bay về tắm rửa sạch sẽ cơm nước xong xuôi thì anh em cơ phi tụ tập nhau lại nơi đầu barrack để kể cho nhau nghe những vui buồn ngày hôm đó, thôi thì đủ mọi chuyện có gì kể nấy và làm cho buổi họp mặt thêm phần hào hứng và vui vẻ, tuy nhiên cũng có khi barrack vắng tanh vì các tay chơi thứ thiệt như Tài sòi, Đăng cò, Ngọc mad ,Lộc râu ,Tống.....đã vọt về Sài gòn, không biết là các bác về nhà làm gì để rồi sáng mai lại trở lên đi bay tiếp ? Có lẽ tôi nghĩ là các bác về để tránh bị pháo kích trong đêm hay là ghé quán sinh tố ở ngã ba Dĩ An nghe đồn có cô Điệp bán sinh tố đẹp và dễ thương lắm!
Đó là đời sống và cách sinh hoạt của anh em chúng tôi đó, vừa từ giả bút nghiên để bước chân vào đời lính anh em chúng tôi vẫn còn giữ được những nét ngây thơ hiền hòa của đời học sinh. Giờ đây chỉ biết vâng lời thi hành mệnh lệnh không so đo không tính toán không đòi hỏi không màng cấp bậc chỉ mong sao sáng ra đi, chiều bình an trở về. Thế nhưng trời cao dường như không chiều lòng người như thế, cuộc đời không chỉ bình an, bình an, và bình an như dòng nước êm đềm đôi lúc cũng có những thử thách những hiểm nguy, những đợt sóng dù nhỏ hay lớn đủ làm khuấy động một vùng nước đang yên tĩnh.
Điển hình có phi hành đoàn rớt đầu tiên ở Bàu Bàng do Th/u Quá, Th/u Khoái cơ phi Quan ,xạ thủ Viên nhưng tất cả được rescue về bình an.
Kế đó không bao lâu thì một phi hành đoàn khác do Tr/u Hùng, Th/u Khoái cơ phi Lập, xạ thủ Hoàng cũng bị bắn rớt ở Trại Bí và cũng được rescue về bình an, rồi cũng có những người bạn kém may mắn hơn và ra đi không bao giờ trở lại như Lộc râu , Ngọc mad, Sum, Hải phở , Năm hair , Tửng... nhưng dù sao thì những sự hy sinh đó cũng không làm chúng tôi nao núng chiến tranh mà, nó đâu chừa một ai....buồn!
Đang miên man suy nghĩ thì tiếng động cơ của chiếc L-19 từ xa vọng lại đã đánh thức tôi về với thực tại, một tia hy vọng lóe lên trong đầu, tôi vội móc túi lấy ra một cái bóp trong đó đựng giấy tờ tùy thân và một cái kiếng nhỏ để soi mặt, lúc này khoảng trưa trời đã quang đảng, ánh sáng mặt trời tỏa khắp mọi nơi, cơ hội ngàn vàng đã đến tôi vội chiếu chiếc gương về hướng chiếc L19 qua trái , qua phải, lên xuống, khoảng vài phút sau có lẽ pilot đã thấy được ánh sáng từ chiếc gương nên đã đâm đầu xuống hướng tôi, vô cùng mừng rỡ vì biết rằng họ đã thấy tôi nên tôi vội vàng đứng dậy và chạy về hướng chiếc L19, vừa chạy tôi vừa vẫy bộ đồ bay, ngay sau đó một trái khói màu được ném ra từ chiếc L19, khoảng chừng 5 phút sau một chiếc trực thăng lù lù xuất hiện như một thiên thần, như một vị cứu tinh đã làm thay đổi cuộc đời tôi, chiếc trực thăng đáp xuống ngay chỗ trái khói màu và nơi đó tôi đang chờ sẵn không đợi cho phi cơ chạm đất tôi đã lẹ làng phóng lên sàn tàu nhanh nhẹn như một chàng biệt kích nhảy toán , tôi ra hiệu cho phi cơ bốc lên và thông báo cho các anh biết là ba người kia đã bị bắt.
Sau khi phi cơ đã lấy được cao độ và ra khỏi vùng nguy hiểm tôi liền nhận ra là anh Quá và anh Tôm là hai phi công lì lợm và gan dạ của phi đoàn mình, Phi Đoàn 231, một phi đoàn mới thành lập nhưng cũng rất hãnh diện được sánh vai cùng với các phi đoàn bạn và quy tụ rất nhiều nhân tài lỗi lạc gan dạ đầy kinh nghiệm không kém gì anh Quá và anh Tôm.
Tôi cũng vô cùng khâm phục và mang ơn người anh hùng không quân lái chiếc L19 đã không sợ nguy hiểm cố gắng tìm ra và đánh điểm cho trực thăng đến cứu tôi. Anh đã làm đúng với châm ngôn của binh chủng không quân chúng ta: “Không bỏ anh em không bỏ bạn bè “, và tôi cũng không quên thành thật xin tạ lỗi cùng năm anh em đã nằm lại với con tàu, chúng tôi đã bất tài không làm tròn nhiệm vụ mà các anh và thân nhân đã mong chờ vào chúng tôi đem các anh về với gia đình để đoàn tụ và được mồ yên mả đẹp, cầu chúc linh hồn các anh sớm được siêu thoát !
NEW ORLEANS 2020

Friday, August 14, 2020

Những Ngày Đầu Tiên Của Căn Cứ 20 Chiến Thuật Không Quân - Đỗ Văn Phúc

Khi cái ramp của chiếc C-7 hạ xuống, tôi tháo giây nịt an toàn đứng dậy nhìn ra phi đạo. Một cơn gió nóng hắt vào theo những luồng nắng màu vàng sậm. Phan Rang đây rồi. Tôi xách túi hành lý, bước chân xuống ngơ ngác nhìn quanh. Chỉ toàn là quân nhân Mỹ. Một sĩ quan không quân tốt bụng cho đi nhờ chiếc xe pick up về nơi tạm đặt văn phòng của toán Không quân Việt Nam đang tiến hành nhiệm vụ tiếp thu căn cứ.

Đó là những ngày cuối năm 1971 khi các đơn vị của Không Lực 7 (Không đoàn Yểm cứ 312 và Không đoàn Chiến thuật 312) chuẩn bị để rời Phan Rang trong chương trình Việt Nam hoá chiến tranh và bàn giao căn cứ lại cho Sư đoàn 2 Không quân.Việt Nam.
Tôi là một sĩ quan bộ binh được chuyển về Không quân do nhu cầu phát triển quân chủng. Rời chiến trường Lộc Ninh còn đang diễn ra ác liệt, tôi vui sướng hưởng được mười lăm ngày phép hiếm hoi với gia đình rồi trình diện Bộ Tư Lệnh Không quân để sau đó, được đưa ra Phan Rang ngay. Là một trong khoảng hơn ba chục quân nhân VN đầu tiên có mặt ở Phan Rang, chúng tôi đã bắt đầu công việc một cách khó khăn vì thiếu phương tiện, nhân sự, mà căn cứ lại quá lớn, quá nhiều tiếp liệu, nhiều cơ sở kỹ thuật tân tiến mà chúng tôi còn rất bở ngỡ.
Người anh cả ngày đó là Đại tá Nguyễn Đình Giao, hiền lành và cởi mở. Đại tá Giao là Chủ tịch Úy ban Tiếp thu Căn cứ Phan Rang, mà trong những tháng đầu, nghe đâu đơn vị mới này được đề nghị đặt tên là Lữ đoàn 21 KQ (nhưng bảng cấp số chưa được Bộ Tổng Tham Mưu chấp thuận). Dưới ông là Trung tá Võ Văn Ân, về sau là Không đoàn phó KĐ 92/CT, Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệt, (sau là Liên đoàn trưởng Phòng Thủ) một hoạ sĩ biếm họa tài ba, mà sau này đã giúp tôi rất nhiều trong việc ấn hành bản tin hàng tháng “Gió Cát”. airbase_pr2Đúng là chúng tôi đã hình thành một cái khung chỉ huy cấp Không đoàn, Liên Đoàn, Đoàn, Khối, Phòng, Ban trở lên cho căn cứ trong tương lai. Tôi còn nhớ nhiều tên các sĩ quan như sau: Đại Úy Trương Khương (Phòng Vệ), Thiếu Uý Lương Văn Cón (Quân Cảnh), Trung úy Vũ Văn Phán (Chuyển Vận), Trung úy Nguyễn Thành Lân (Truyền Tin), Đại úy Long (Yểm trợ Hành Quân), Đại Uý Trần Phước Hội (Bảo Trì), Trung úy Phạm Thế Dân (Tiếp Liệu), Trung úy Nguyễn Văn Ngà (Cư Xá), Trung Úy Nguyễn Văn Phước (Ẩm Thực), Y sĩ Trung úy Nguyễn Dương, Dược sĩ Thoại, Nha sĩ Sanh, Nha Sĩ Huỳnh Thanh Xuân (Khối Quân Y), Trung Úy Lý Phước Lộc (Nhân Viên), Đại Uý Nguyễn Minh Tâm (Huấn Luyện), Trung úy Phạm Phú Vinh (Tài chánh), Đại uý Nguyễn Tấn Mỹ (An ninh KQ). (Cấp bậc trong bài viết này là cấp bậc của thời điểm đầu năm 1972).

Trong khi các anh em khác đều là quân nhân KQ từ Sư đoàn 2 chuyển vào, có nhiều hiểu biết về tổ chức quân chủng, thì tôi là “em mới” ngơ ngác, quân phục tuy đã thay phù hiệu, nhưng vẫn còn còn vương hơi thuốc súng và dấu vết đất đỏ miền Đông Nam phần. Ấy thế mà tôi lại là một trong những người được đi nhận nhiều cơ sở và trang bị nhất trong căn cứ. Vì là một quân đội nhà giàu, quân nhân Mỹ được hưởng nhiều tiện nghi vật chất, nên đơn vị Tổng vụ của Hoa Kỳ quản lý gần như một phần tư tài sản của căn cứ gồm các hội quán, PX, rạp chiếu bóng, hồ bơi, du thuyền, câu lạc bộ… mà lẽ ra, đoàn Tổng vụ KQVN phải ký nhận. Nhưng mấy ông Tổng vụ Không quân quá rành sáu câu, nên đã biết không dại gì vơ vào để sau này có thể mang hoạ. Thế là anh sĩ quan CTCT mới gia nhập gia đình quân chủng bèn được ưu ái cho lãnh nhiệm vụ này. Lúc còn ở Bộ binh, tôi làm đơn vị trưởng chiến đấu, tiếp liệu đã có người lo, nên không hề thấy hết cái phức tạp của ngành này. Vì thế, tôi cứ ngày ngày tà tà đi theo các sĩ quan Mỹ đến hết kho này đến kho kia, từ bên này qua bên kia phi đạo xa lắc, để ký nhận hàng ngàn món vật dụng mà sau này, cho đến khi rời Phan Rang về nằm Tổng Y viện Cộng Hoà, tôi không có một dịp thứ hai để kiểm kê lại mất còn ra sao.

Cuộc sống ở Căn cứ Phan Rang những ngày đầu tiên rất đơn điệu. Ngày ngày đi ký nhận cơ sở, vật liệu. Đến chiều, anh em chúng tôi leo lên mấy cái pick-up về phòng ngủ, tắm rửa rồi kéo nhau lên Câu lạc bộ Sĩ quan nằm trên một ngọn đồi nhỏ để ăn tối. Trong thời gian này, quân nhân VN được chiêu đãi miễn phí cả ba bữa ăn: sáng, trưa, chiều. Thức ăn dồi dào thừa mứa, như bên này chúng ta ăn ở các nhà hàng “all you can eat”. Thửa đó, chúng tôi chẳng biết tên món nào vào món nào, nên phải chỉ cho anh đầu bếp Mỹ múc vào cho mình, giống như kiểu ăn “cơm chỉ” ở quán ăn bên hông rạp cine góc đường Lê Lợi và Công Lý ở Sài gòn ngày xưa vậy.
Lính Không quân là sướng nhất trong quân đội VNCH, thứ nhất ở các thành phố lớn, thứ hai là tiện nghi rất cao. Phan Rang là một trong hai căn cứ sau cùng do Hoa Kỳ chuyển giao, nên tất cả tiện nghi kiểu Mỹ còn như nguyên vẹn. Chúng tôi được chia cho các căn phòng mà trước đó dành cho sĩ quân độc thân, nên cò đủ giường, nệm, tủ áo hai cánh, tủ nhỏ 6 ngăn, bàn viết, ghế nệm. Duy chỉ có cái máy lạnh là bị gở đi mất. Có lẽ các bạn Mỹ cho rằng dân Việt miền nhiệt đới thì đã chịu quen cái nóng nên không cần máy lạnh chăng?

Buổi tối, những anh có xe pick up thì rủ nhau ra phố cách phi trường chừng 5 cây số để
vui chơi. Vài anh em còn lại quây quần trong cái lounge đánh cờ tướng, trò chuyện gẫu. Tôi chưa quen ai, nên còn e dè chưa biết phải hội nhập ra sao với các anh sĩ quan Không quân vốn hào hoa phong nhã. Vì thế, tôi thả bộ qua Câu Lạc Bộ gần đó để uống bia, nghe nhạc với Thượng Sĩ Jansen, là người cùng làm việc với tôi trong suốt thời gian tiếp nhận căn cứ. Những năm đầu thập niên 70, nhạc Rock-n-Roll rất thịnh hành. Câu lạc bộ tràn ngập trong khói thuốc, hơi rượu và ầm ỉ tiếng la hét của ca sĩ Hard Rock. Thỉnh thoảng cũng có những ban nhạc sống Đại Hàn, Phi, hoặc từ Mỹ đến. Những đêm đó, thật đông và nhộn vì chắc chắn có các cảnh tươi mát.
Ngoài việc hàng ngày đi ký nhận cơ sở, vật liệu; tôi bắt đầu thực hiện một bản tin lấy tên là “Gió Cát”.Bản tin chừng 6 trang, gồm tin tức tiến hành công việc, vài bài thơ của các anh trong ban tiếp thu, vài tranh hí hoạ của Thiếu Tá Thiệt. Trên trang bià, tôi vẽ lại hình chụp từ cockpit môt chiếc A-37, với người hoa tiêu nhìn từ sau nên chỉ thấy chiếc nón và một phần mặt nạ của ống dưỡng khí. Việc in ấn rất dơn giản bằng stencil là chính. Thế là mãi bốn năm sau ngày ra trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị, tôi mới chính thức làm công tác CTCT.
Phan Rang là một địa điểm thích hợp cho việc bay bổng. Đứng trên đỉnh đèo Ngoạn Mục cách phi trường chừng 50 cây số nhìn ra hướng biển, là cả một vùng đất bằng phẳng. Thời tiết quanh năm khô ráo. Hình như chẳng có trận mưa nào suốt năm. Bầu trời thì luôn luôn quang đảng, không một gợn mây. Duy chỉ có gió và lại là gió cát. Vì thế người dân Phan Rang thường có đôi mắt không đẹp, do phải thường nhắm nghiền lại để khỏi bị bụi cát.
Cuối tuần, đa số các anh có nhà ở Nha Trang đã đánh bài chuồn từ chiều thứ sáu. Còn lại một đám “mồ côi” như tôi chẳng biết làm gì cho hết hai ngày nghỉ. Phương tiện thì không có. Chúng tôi dùng chiếc Step Van – chỉ được phép sử dụng trên phi đạo để đưa đón phi hành đoàn mà thôi – ra phố chơi. Step van chỉ có ba số: Tới, lui và parking. Ngoài tài xế là được ngồi trên ghế, anh em còn lại phải ngồi bệt xuống sàn nếu không muốn đứng lắc lư con tàu đi suốt khoảng đường 5 cây số.
Phan Rang là một thị trấn nhỏ, hiền lành. Có một con phố chính, là đường quốc lộ 1, đoạn đi qua thị xã chừng dưới một cây số. Các đường phụ đa số chạy qua khu dân cư, khu hành chánh. Tiệm ăn không nhiều. Nhưng đặc sắc là có tiệm bán chim sẻ nướng. Những con chim nhỏ vừa chín tới, thơm ngon. Mỗi con luôn đầu mình (chân tay) vừa một miếng. Thêm một vài tiệm bán đồ nhắm thủy sản mà ngon nhất là con hào, móng tay, ăn nướng vĩ than hay xào, nấu cháo đều ngon. Phan Rang có hai chị em cô Phụng, Hoàng là các đấu thủ bóng bàn cấp quốc gia; sau này căn cứ có thêm Thiếu tá Tạ Duy Quý cũng là một tay vợt nổi tiếng. Anh Quý thường đi săn chim mỏ nhác đem về. Tôi mua rượu chát đỏ trong bình 5 lít cùng anh em thân thiết ngồi quây quần nhậu nhẹt suốt đêm.
Từ cổng phi trường đi ra chừng vài trăm thước là thị xã Tháp Chàm. Gọi là thị xã, nhưng đó chỉ là một điểm dân cư nhỏ quanh ga xe lửa Tháp Chàm. Tại đây, có vài cơ sở dịch vụ vui tươi như quán “bà Tô” mà anh em độc thân xa nhà thường ra “thử súng”. Vài quán ăn lèo tèo. Chỉ một nồi súp mà chủ quán có thể gia giảm để khi thì bún bò, khi thì phở, hủ tíu, và canh các loại. Tuy nhiên chúng tôi cũng dễ dải chấp nhận sau những ngày dài ăn toàn gà chiên, hamburger trong căn cứ.
Căn cứ Phan Rang nổi tiếng là nhiều rắn. Đủ loại, đủ cỡ. Khi đã thành đơn vị, gia đình chúng tôi được phát những căn nhà nhỏ xinh xắn ở khu Bánh ú (cấp trưởng phòng) hay khu Red Horse. Từ cấp Liên đoàn trưởng trở lên thì được ở trong những trailer đẹp dựng ở các sườn đồi. Gần như ngày nào chúng tôi cũng thấy rắn bò lổm ngổm. Có lần rắn nằm chực ngay chỗ vòi nước sau nhà, nơi vợ tôi thường hay ra giặt giủ. Một lần, chị Phạm Bính (Trung tá Bính là Liên đoàn trưởng LĐ 92 CT) đứng trước nhà nói chuyện với vợ tôi. Tôi vừa mặc áo quần sửa soạn lên Bộ Chỉ Huy Căn cứ họp thường lệ. Vừa ra khỏi cửa, đã nhìn thấy môt chú rắn hổ đang ngóc đầu ngay bậc thềm nhà anh Bính, chỉ cách chỗ chị Bính chừng một mét thôi. May mà chị Bính đẹp và duyên dàng, nên chú rắn cứ mãi nhìn say đắm mà không tác hại. Phải có hàng trăm con rắn đang sinh sống trong những nơi mà trước đó là các căn nhà trailer đã bị Không quân Mỹ tháo đi, chỉ còn những đám cỏ cao đến tận đầu gối không ai phát quang, dọn dẹp. Chúng thường bò đến các căn nhà chúng tôi để kiếm nước, để lại những dấu vết trên mặt đất khô.
Dần dà, quân nhân Việt Nam đến càng đông. Các đơn vị bắt đầu hình thành với tạm đủ sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính. Nhưng cho đến khi tôi rời đơn vị vào giữa năm 1973, bảng cấp số vẫn chưa được chính thức thừa nhận. Vì thế, các anh gốc Sư đoàn 2 KQ vẫn mang chức vụ cũ, trong khi chỉ có tôi và vài anh là mang chức vụ “Lèo” Do đó, sau này chúng tôi có nhiều thiệt thòi trong việc thăng thưởng. Đến giữa năm 1972, chúng tôi vẫn chưa biết đơn vị mình sẽ là Lữ đoàn 21 hay Căn cứ 20 Chiến Thuật. Sự phiên chế vẫn chưa rõ ràng. Khối Chiến tranh Chính trị là một thí dụ. Khi thì nghe rằng khối CTCT trực thuộc bộ Chỉ Huy căn cứ, có lúc lại nói rằng trực thuộc Không đoàn Yểm Cứ Phan Rang.
Sau khi Đại tá Nguyễn Đình Giao hoàn tất việc tiếp nhận, một lễ bàn giao trong thể được tổ chức ngay tại sân lớn phiá sau toà nhà Bộ Chỉ Huy. Tôi được vinh dự làm MC, Thiếu tá Nguyễn Văn Tâm (trưởng phòng Huấn Luyện) làm sĩ quan Quân lễ. (hình đính kèm). Đại Tá Giao đi làm Tham Mưu Trưởng Sư đoàn 6 KQ tân lập, Đại Tá Nguyễn Văn Bá về thay làm Chỉ Huy Trưởng Căn cứ. Không doàn Yểm cứ do Trung tá Trần Đình Giao đảm nhiệm, Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệt, Không đoàn phó kiêm Liên đoàn trưởng LĐ Phòng Thủ.. Không đoàn 92 Chiến Thuật do Trung Tá Lê Văn Thảo nắm, Trung tá Võ Văn Ân làm Không đoàn phó, Trung tá Phạm Bính là Liên đoàn trưởng LĐ 92 CT, Thiếu tá Ấn (Hành Quân), Thiếu tá Tạ Duy Quý (An Phi). Phi đoàn Kim Ngưu 534 ra đời, là đơn vị Phản lực A-37 đầu tiên của Phan Rang, dưới quyền Thiếu tá Nguyễn Văn Thi. Sau đó tăng cường Phi đoàn 524 của Thiếu tá Sử Ngọc Cả từ Nha Trang vào, và phi đoàn tân lập 548 của Thiếu tá Trần Mạnh Khôi. Không đoàn 92 CT có thêm một phi đội trực thăng 215 do Đại uý Tạ Thành Nhân làm Phi đội trưởng. Ông Nhân họ Tạ này, hợp cùng hai ông Tạ Hoà Hưởng và Tạ Thượng Tứ của Phi đoàn 534, Tạ Duy Quý (An Phi) làm thành bốn sao quả tạ của Căn cứ!! Liên đoàn Bảo trì Tiếp liệu do Thiếu tá Trần Phước Hội chỉ huy gồm có Đoàn Bảo trì (Thiếu úy Xuyến); Chuyển vận (Đại úy Phán), Truyền Tin (Đại uý Lân), Tiếp liệu (Đại úy Dân), Vũ khí (Thiếu úy Đức).
Căn cứ Phan Rang rất rộng, chu vi phòng thủ dễ đến khoảng 30 cây số, do một tiểu đoàn Địa Phương quân đảm trách phối hợp cùng Liên đoàn Phòng Thủ. Sĩ quan Tham mưu lâu lâu trực căn cứ một lần hai giờ; vừa đủ đi một chuyến vòng đai. Tôi ở Phan Rang hai năm hình như chỉ có một vài lần bị pháo kích. Đa số các quả đạn lọt vào phía bên kia phi đạo.
Đơn vị có một rạp hát rất rộng và đẹp. Nhưng máy móc thì bị Không quân Mỹ gở đi hết, chỉ còn một nền nhà trống trơn mà suốt mấy năm trời, chúng tôi chỉ sử dụng một lần cho chương trình văn nghệ học tập. Đa số các buổi học tập cấp căn cứ và các buổi diễn văn nghệ khác đều được tổ chức ở sân khấu lộ thiên, có các băng ghế gỗ đủ cho 3000 khán giả. Sân khấu lộ thiên này nằm cạnh một câu lạc bộ rất đẹp (cũng bị bỏ trống nhiều năm), trên con đường ngoằn nghèo dẫn lên Câu lạc bộ Hạ Sĩ Quan nằm trên đồi có giàn rada của căn cứ.
Sau khi quân nhân Hoa Kỳ đã hoàn toàn ra đi, các nhà ăn cũng bị Việt Nam hoá. Từ hamburger, khoai tây chiên, nay chỉ ngửi thấy mùi đậu xào, canh cải. Các “câu lạc bộ” do các quân nhân Việt trúng thầu mọc lên, cung cấp các bữa ăn vừa túi tiền cho quân nhân trong đơn vị. Rồi bắt đầu mọc lên những quán cà phê nhạc, mà đông khách nhất là quán của phu nhân Đại Uý Lân (Truyền Tin).
Khối CTCT cũng sử dụng một dãy nhà đặt 4 bàn bi da cho quân nhân giải trí. Nhưng vì không ai chăm sóc nên rồi cũng dẹp tiệm sớm để thay vào đó là võ đường Thái Cực Đạo. Phía sau phòng Chính huấn của tôi có một hồ bơi rất tiện nghi, nhưng chưa hề thấy ai ra tắm. Hồi đó, Thiếu tá Võ Văn Thi làm Trưởng khối CTCT, Trung úy Trần Thanh Tịnh (Tâm Lý Chiến), Thượng sĩ Nguyễn Đình Thiều làm báo chí, tôi làm Trưởng phòng Chính huấn, thường tổ chức các buổi học tập từ cấp đoàn đến cấp căn cứ. Căn cứ đã có lần đoạt giải nhất toàn quân chủng trong đợt học tập về Hoà đàm Paris. Tôi nhớ một lần, học tập cấp căn cứ rất trọng thể tại sân khấu lộ thiên. Có Chuẩn tướng Nguyễn Văn Lương, Sư đoàn trưởng và các sĩ quan cao cấp từ Nha Trang vào tham dự. Tôi là thuyết trình viên. Trưa đó, tôi có việc ra phố Phan Rang liên lạc với khối CTCT Tiểu khu. Gặp một đám bạn quen mời nhậu cho đến chiều, quên mất việc mình sẽ lên thuyết trình vào lúc 7 giờ tối hôm đó. Sau khi quân nhân đã tập họp đông đủ tại sân khấu lộ thiên, ông Thi (khi đó còn là Đại uý) tìm tôi không ra. Hỏi qua nhà, nghe vợ tôi nói đã đi ra phố chưa về. Thế là căn cứ cho một xe Quân cảnh đi tìm. Họ gặp tôi ở quán ăn, chở về vừa kịp trước giờ khai mạc. Ông Thi đứng ngay bậc thềm bước lên sân khấu hỏi: “Anh xỉn rồi, có nói được không?” Tôi tự tin: “Đại Úy đừng lo.” Có lẽ nhờ hơi ngà ngà, đêm đó tôi đã nói một cách hết sức hùng biện và được Sư trưởng khen ngợi. Chỉ có vài anh biết chuyện, đùa rằng: “Nhờ rượu nói đó.” Làm CTCT chưa đủ, tôi thường nổi máu giang hồ mạo hiểm, nên hay đến với phi đoàn 534 xin đi theo các chuyến bay hành quân. Tôi bay nhiều lần với Đại úy Dương Thiệu Chí, Thiếu tá Võ Phi Hổ. Thiếu tá Thi (Phi đoàn trưởng) cho phép tôi sử dụng dù và nón bay của Thiếu úy Xuân, ưu ái cấp cho tôi một sổ Không vụ bạ ghi giờ bay, coi tôi gần như một thành viên của phi đoàn. Thiếu úy Xuân (hy sinh năm 1974), Thiếu úy Đạo kiếm cho tôi ba bộ áo bay ba màu khác nhau (đen, xám và nomex) có đủ phù hiệu của Phi đoàn. Thường sau các chuyến bay yểm trợ cho Sư đoàn 23 BB ở Buôn Hồ, Đại uý Chí thế nào cũng tách hợp đoàn, bay qua thành phố Đà Lạt cho tôi nhìn lại căn nhà vợ tôi nấp dưới những tàng cây xanh mướt. Anh cũng liều mạng tập cho tôi cầm “stick” bay về căn cứ nhiều lần. Tôi cũng học cách sử dụng Tacan, Beacon để định hướng, biết thế nào là Final Approach. Thế là tôi cũng phần nào thỏa mãn mộng bay bổng đã một lần không thành sau khi khám xong sức khoẻ để nhập khoá 65A mà phải bỏ cuộc.
Giữa năm 1973, tôi bị nhiễm chứng bệnh Thyroid mà lúc đó Y sĩ Đại úy Vĩnh Phương chưa tìm ra bệnh. Ông gửi tôi ra Quân Y Viện Nguyễn Huệ, sau đó chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hoà. Nằm được mấy tháng, biết căn bệnh không thể trị được, TYV Cộng Hoà đưa tôi ra Hội Đồng Miễn Dịch để giải ngũ với cấp độ tàn phế 70%. Tôi trở về đời sống dân sự cho đến ngày quốc nạn để được nhà cầm quyền CS “khoan hồng nhân đạo” cho “học tập cải tạo” tròn mười năm.
Những ngày cuối cùng của miền Nam, tôi còn gặp Trung tá Trần Đình Giao một lần tại quán Gà, Xôi nướng nổi tiếng trên đường Hàng Xanh. Sau đó, những ngày cuối tháng 4 hỗn loạn, lại nhìn thấy các anh em Kim Ngưu không di tản kịp đang chen chúc nhau trên một chiếc xe jeep qua đường Trương Minh Ký.
Rồi thôi. Bẳng đi hơn ba mươi năm nay mới có dịp ngồi ôn lại.
Đỗ Văn Phúc