Thursday, November 4, 2021

Video Tang Lễ NT Đại Tá Nguyễn Hồng Tuyền Nguyên Chỉ Huy Trưởng CC60CT/KQ Phù Cát - KĐT-KĐ YỂM CỨ 84 CẦN THƠ - SÓC TRĂNG

 


Khóc anh Năm
 
Rồi anh, đi theo đường đã vạch rồi, đường trên không gian ủ ấp hình hài,
Từ anh lên cao anh là Nắng, là Trăng hay Sao, anh nhìn xuống,
Nhìn nước non nhà, đẹp xinh như gấm như hoa… (PD)
 
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
 
Hôm nay, 9 giờ sáng ngày 4 tháng 11 năm 2021, tôi nhận được một tin rất là buồn qua email.  Anh Năm, đại tá Không Quân Nguyễn Hồng Tuyền, không còn trên cõi đời này nữa…
Đã biết từ lâu rằng anh Năm đã già yếu, đã phải đi lọc thận từ lâu, hình như trên 20 năm thì phải, và theo luật sinh tử của trời đất, anh Năm, cũng như tất cả mọi người, như anh em chúng ta, sớm muộn gì thì cũng phải rũ áo ra đi mà thôi.  Làm sao tránh được.  Nhưng nghe tin anh Năm từ giã cõi đời, tôi đau đớn bồi hồi.  Đau đớn thật tình, đau đớn trong tâm hồn.  Đau đớn trong đầu óc.  Đau đớn trong trái tim.
Có người sẽ hỏi, tại sao một anh thiếu uý phi công quèn, vô danh tiểu tốt như tôi, chẳng có họ hàng rể má gì đến một đàn anh Không Quân cấp đại tá, không phải Đại Tá thường mà là một Đại Tá nổi danh của Không Quân, lại đau đớn đến như thế?  Có đau đớn thật chăng, hay vì thấy người sang… chết, nên muốn bắt quàng làm họ, giả vờ đau đớn bố láo này kia?
Xin thưa, câu nói ấy có phần đúng, bởi vì, ngày xưa, lúc anh Năm đã là một Đại Tá căn cứ trưởng căn cứ Không Quân Phù Cát, tôi chỉ là một anh thiếu uý Không Quân quèn, chẳng hề quen biết, chẳng hề có bà con gì cả với anh Năm.  Điều này đúng. Nhưng tất cả những gì còn lại là sai, bởi vì, Đại Tá Tuyền và tôi, hai người phi công đánh giặc, một già một trẻ, đã vô tình gặp nhau… trên tần số UHF trong một trận đánh ở phi trường Phù Cát…
Hồi đó, tôi biệt phái Phù Cát, và Việt Cộng đem quân tới tấn công căn cứ. Tôi làm bổn phận, lên trời, tham dự đánh đấm. Một phi vụ như hàng trăm phi vụ tôi đã bay, có máu đổ, có người chết, bom đạn nổ tum lum, chẳng có gì đáng nói ở đây. Tôi không còn nhớ nhiều, chỉ nhớ rằng chiến trường lúc đó găng lắm vì chúng tôi hướng dẫn đánh bom gần sát phi trường. Tôi không nhớ rõ, không hiểu vì một lý do nào đó, (có thể vì khu trục đánh trật lất, có thể vì pháo binh bắn như hạch, cũng có thể vì bị chúng nó bắn … teo chim quá) tôi đã chửi thề tùm lum trên vô tuyến, một điều cấm kỵ. Số tôi xui cho nên Thiên Phong, danh hiệu truyền tin của anh Năm, tư lệnh mặt trận, đang bay C & C, cũng đang theo dõi trên tần số. Nhưng anh Năm không nói gì trên tần số, có lẽ vì anh thấy tôi bay quá đẹp, quá hết lòng.  Nhưng nửa chừng, có người trong phi đoàn gọi tôi qua tần số giải tỏa nói chuyện gấp.  Ở tần số giải tỏa, một đàn anh phi đoàn xài xể tôi, cho tôi biết có tư lệnh chiến trường trên tần số, chú coi chừng cái miệng của chú, nếu không muốn ăn 15 ngày trọng cấm.  Tôi dạ thưa ngon lành rồi tiếp tục bay, lâu lâu lại… tiếp tục chửi thề.  Đại úy Huy bay với tôi bực mình phán, “Mẹ, thằng nhóc này chưa thấy quan tài chưa đổ lệ.”
Sure enough, buổi tối, biệt đội trưởng phi đoàn 114 nhận được cú điện thoại của anh Năm.  Anh hỏi chiếc Mustang (hồi Mùa Hè Đỏ Lửa phi đoàn còn mang danh hiệu Mustang, chưa đổi qua Sao Mai) gì đó, ai bay vậy.  Còn ai trồng khoai đất này, thiếu uý Nhị đó, thưa trung tá.  Xếp tôi trả lời rồi quay lại nhìn tôi, mặt mày hầm hầm làm như chỉ muốn ăn tươi nuốt sống, chờ đợi những lời quở trách sỉ vả của anh Năm.  Nhưng hình như anh Năm đã không sỉ vả, vì tôi không nghe đại úy Huy nói gì, lâu lâu lại cười nhẹ.  Cuối cùng anh nói cám ơn trung tá rồi cúp máy, mặt mày tươi tỉnh.  Đại úy Huy nhìn tôi bảo:  “Ông Tuyền khen em bay đẹp, biết đánh giặc, nhưng trên tần số từ này về sau phải ráng giữ phép lịch sự.  Chừng đó thôi.”
Mọi người thở phảo nhẹ nhỏm.  Mẹ, hú cả hồn.
Nhưng tôi thương nhớ anh Năm không phải vì chút kỹ niệm nhỏ ấy.  Tôi có nhiều lý do hơn.  Trước hết, hãy nói đến cái căn cứ Không Quân Phù Cát.
Hồi đó, khi quân đội Mỹ rút, họ để lại cho chúng ta rất nhiều căn cứ quân sự với đầy đủ những trang bị.  Và trong tất cả những căn cứ quân sự, căn cứ Không Quân là mắc tiền nhất, có thể nói gấp trăm lần những căn cứ khác.  Đừng nói gì đến những ụ phi cơ xây bằng hàng ngàn triệu tấn xi măng, hãy nói đến những dãy nhà BOQ (Bachelor Officer Quarters), một loại cư xá độc thân dành cho phi công.  Mỗi một BOQ khoảng vài chục phòng, mỗi phòng đều có điện thoại riêng, giường nệm, bàn tủ, đèn, vân vân, nhưng quan trọng hơn cả, máy lạnh.  Mỗi BOQ còn có những nhà tắm với máy nước nóng, một giấc mơ của mọi người.  Đấy là chưa nói đến những phòng giải trí có bàn bi da, có Ti-vi màu, ghế sa lông vân vân.
Căn cứ Phù Cát rất lớn, coi như một thành phố nhỏ, đầy đủ với bệnh xá, tổng đài điện thoại, nhà máy phát điện, nhà máy lọc nước vân vân. 
Nước Mỹ giàu sang hùng mạnh, người Mỹ đi đến đâu cũng ăn ở như vua chúa, dù ngay cả trong rừng.  Vì thế, căn cứ Phù Cát là một thiên đường nhỏ với những tiện nghi đầy đủ như một thành phố của Mỹ là một chuyện thật, chẳng có gì đáng nói ở đây.  Cái đáng nói là, hổi đó, thường thường, những căn cứ đồ sộ và vĩ đại của Mỹ để lại, giao cho Việt Nam ta thì, đa số, chỉ trong vòng vài ngày, nó biến thành… một dãy đất hoang với những cột kèo nằm chỏng gọng và trơ trụi bởi vì quân dân ta đã làm thịt nó sạch sẽ.  Thật ra, ngay cả những cái cột kèo kia, bởi vì bị chôn xuống nền xi măng nên thiên hạ không lấy được, nếu bứng đi được thì chúng nó cũng biến mất tiêu rồi.  Ngay cả cuộn hàng rào dây thép gai, bóng đèn điện mà còn bị ăn cắp thì nói gì đến những cái ti-vi, máy lạnh, tủ giường, những máy nước nóng trị giá hàng trăm ngàn đồng Việt Nam thời đó.  Chuyện này xảy ra hàng ngày khi người Mỹ rút, ngày nào báo chí chẳng loan tin.  Và chẳng ai làm được gì cả.
Nhưng Không Quân Việt Nam được may mắn hơn nhiều.  May mắn là bởi chúng tôi có những người chỉ huy trong sạch như tư lệnh Không Quân, trung tướng Trần văn Minh, như Đại Tá Nguyễn Hồng Tuyền và nhiều vị khác nữa…
Đại Tá Nguyễn Hồng Tuyền nhận bàn giao căn cứ Phù Cát, Mỹ giao như thế nào thì mọi thứ vẫn còn y nguyên như vậy, không thiếu một con bù lon, một sợi dây điện.  Thậm chí, có vài anh lính Mỹ, có lẽ nghe lời xúi quẩy của vợ Việt Nam, chở máy lạnh ti-vi ra ngoài cho vợ, đã bị anh Năm cho Quân Cảnh Mỹ-Việt chận bắt tại ngoài cổng phi trường.  Còn lính Việt Nam thì khỏi nói, anh Năm ra cho một toán an ninh nằm canh thường trực ngoài cổng hàng rào 24/24, tất cả xe cộ, không cần biết của ai, ra vào đều bị khám xét kỹ càng.  Tôi nghe nói là cả xe của anh Năm cũng bị xét luôn.  Thế là chẳng có ai còn dám nghĩ đến chuyện ăn cắp đồ đem ra ngoài bán.
Nhờ sự thanh liêm và tài giỏi của anh Năm, anh em Không Quân chúng tôi, mỗi khi đi biệt phái Phù Cát, đều được ở phòng máy lạnh, tắm nước nóng, coi tivi màu, đánh bi da, hưởng mọi đầy đủ tiện nghi như một phi công Mỹ.
Rồi Mỹ rút, miền Nam Việt Nam mất nguồn đô la vĩ đại, bước vào tình trạng kinh tế suy tàn, lạm phát phi mã.  Mãi lực đồng lương của một triệu người lính QLVNCH, vốn đã ít ỏi khiêm nhường, bây giờ lại càng trở nên teo tóp nhỏ hẹp lại, gây khổn khổ cho họ và gia đình họ.  Cả nước Việt Nam lầm than khốn khổ…
Lính đói, lính nghèo, chuyện này ai cũng biết, nhưng chẳng ai làm được gì, từ ông tổng thống xuống tới ông phi đoàn trưởng Không Quân, ông đại đội trưởng bộ binh.
Nhưng anh Năm lại làm được, đó là chuyện thứ hai tôi muốn nói ở đây…
Anh Năm thương lính, biết anh em quân nhân và gia đình nghèo khổ, cần được giúp đỡ.  Anh nẩy ra một sáng kiến độc đáo, những sáng kiến chỉ có thể nẩy sinh ra trong đầu óc những người chỉ huy tài giỏi, biết yêu dân thương lính thật tình.  Thấy đất phi trường rộng rãi, cỏ mọc khắp nơi, anh liền cho nuôi một đàn dê.  Thả dê có nhiều cái lợi.  Lợi thứ nhất là dê gặm cỏ, khỏi mất công lái máy cày cắt cỏ, phi trường được sạch sẽ và an ninh.  Thứ hai, dê lớn, lâu lâu thịt một con, ăn cả đại đội.  Nuôi dê xong, anh Năm còn cho nuôi bò, khuyến khích anh em tự lực cánh sinh.  Chưa hết, anh Năm còn theo dõi kiểm soát để câu lạc bộ trong phi trường bán giá vừa phải nhưng đồ ăn thức uống ngon lành, đỡ túi tiền những người lính nghèo như chúng tôi.
Những chuyện này hổi đó không ai thấy, đến chừng thấy ra được thì đất nước không còn nữa.  Than ôi, thương anh quá đi anh Năm yêu dấu ơi.
Rồi mất nước, rồi lưu lạc…
Khoảng năm 99, tôi đang tạm cư ở San Jose, trong một Đêm Không Gian, đang ngồi trong bàn rượu bỗng có một mâm bia Heineken đem tới bàn tôi ngồi.  Người bồi chỉ tay nói của cái ông ngồi ở cái bàn xa tuốt bên kia mời.  Tôi không biết ông ta là ai nên đứng lên đi tới để cám ơn.  Chưa đến gần thì tôi đã nhận ra người tặng cho tôi chầu bia là anh Năm.  Tôi cảm động vô cùng, ngồi xuống bàn anh, cám ơn anh Năm.  Chúng tôi tâm sự khá lâu, nhắc nhở nhiều chuyện ngày xưa, chuyện bây giờ.  Có những chuyện nhỏ, tôi tưởng anh không nhớ nhưng anh lại nhớ.  Đó là chuyện ông thiếu uý du côn, bay rất đẹp, đánh giặc rất tới nhưng chửi thề tùm lum trên tần số.  Anh Năm còn kể, hồi đó mặt trời của vùng 2, tức tướng Toàn cũng có trên tần số, nghe tôi chửi thề nên bực mình lắm.  Tư lệnh vùng mà bực mình thì nhất định phải có thằng bị nhốt, anh Năm phải khéo léo để đỡ đạn cho thằng em phi công mà anh không hề quen biết.  Chuyện này hổi đó anh không nói, không kể, bây giờ mất nước rồi, anh kể lại cho vui.
Sau lần gặp gỡ vui vẻ đó, chúng tôi chẳng còn có dịp gặp nhau.  Chuyện này dễ hiểu, bởi cuộc đời chúng ta luôn luôn bị chìm đắm bởi đủ thứ chuyện lẩm cẩm nhưng quan trọng, như chuyện cơm áo, chuyện gia đình, vân vân, ít ai có thì giờ để nghĩ đến ai.  Nhưng anh Năm thì khác.  Anh vượt lên trên tất cả những chuyện đó.  Thỉnh thoảng, cỡ vài tháng một lần, anh Năm bỏ thì giờ để gọi điện thoại thăm từng đứa em một.  Anh thường gọi cho tôi, hỏi thăm thằng Út phi đoàn 114 dạo này ra sao.  Tôi biết lúc đó anh bị đau thận đã lâu, mỗi tuần phải vào nhà thương để lọc thận, thế mà anh không bao giờ nói hay than thở về bệnh tình của anh, chỉ hỏi thăm đàn em và nói chuyện Không Quân, rồi bắt qua chuyện văn chương thi phú.
Đầu năm nay, tôi bị ung thư xém chết, phải vào nhà thương điều trị.  Anh Năm nghe tin, liền gọi và email tới tấp hỏi thăm.  Tôi cảm động lắm, nhưng mệt quá, nói điện thoại cũng không đủ sức, không suy nghĩ được nhiều, nên nói chuyện với ai cũng trả lời nhát gừng, có khi bị gián đoạn nửa chừng.  Rồi một ngày tháng Sáu, anh Năm lại gọi.  Tôi đã khỏe nhiều và bắt đầu nói chuyện lai rai được.  Anh Năm hỏi, chú út mở “Facetime” để anh nói chuyện và coi mặt mày chú út lúc này ra sao.  Tôi xài Samsung Android nên không có facetime, lại đang mệt mõi, nên nói với anh Năm để lần sau…
Nhưng chẳng bao giờ có lần sau để cho chú út gọi anh Năm nữa…
Sau đó, vợ chồng tôi bận rộn chuyện dọn nhà, rồi cơn bão Ida tràn vào thành phố, điện bị cúp gần tháng trời, rồi hàng trăm ngàn thứ chuyện để lo toan.  Đùng một cái, một buổi sáng, đọc trên email, anh em Không Quân thông báo anh Năm đã ra đi.  Tôi giật mình đau đớn.
Đau đớn bởi vì, đáng lẽ ra, tôi là người phải đi trước anh Năm.  Tôi là người khi còn nằm trong nhà thương đã nhận được điện thoại của anh Năm, khuyên tôi ráng giữ gìn sức khỏe, chúc tôi đủ mọi thứ, cầu nguyện cho tôi.  Nhưng tôi vừa lành bệnh, chưa kịp nói một lời cám ơn, chưa kịp… facetime với anh thì anh đã ra đi…
Đối với những người mình quý mến hay quen biết, nghe tin ai đó ra đi đều là một chuyện buồn.  Nhưng anh Năm ra đi làm cho tôi đau đớn vô cùng.   Đau đớn vô cùng, không nói quá, bởi tôi nợ anh Năm nhiều món nợ ân tình.  Nợ anh ngày xưa đã cho anh em chúng tôi được hưởng một căn cứ Không Quân đầy đủ tiện nghi, nợ anh ngày xưa đã không nhốt tôi khi tôi lầm lỗi, nợ anh khi được ăn uống câu lạc bộ với một giá rẻ với đồ ăn ngon…  Anh ngày xưa làm lớn, mình nhỏ thì chuyện nợ anh cũng là chuyện thường.  Nhưng mất nước rồi, qua Mỹ, vẫn còn nợ anh thêm nữa.  Nợ anh khi anh đã tặng tôi một mâm bia Heineken trong một Đêm Không Gian ở San Jose, nợ anh với những cú điện thoại anh đã bỏ thì giờ thăm hỏi, và cuối cùng, nợ anh vì một facetime anh muốn xem mặt tôi mà không xem được…
Chú út xin gập đầu quỳ lạy trước hương hồn anh Năm, ứa hai hàng lệ.  Như em đã viết, nợ tiền nợ bạc thì dể trả, nhưng nợ ân tình thì khó trả vô cùng.  Và có thể, sẽ không bao giờ trả được…
Sáng hôm đó, buồn quá, tôi gọi cho đại úy Thành, trưởng phòng nhân viên của sư đoàn 6 Không Quân, để tâm sự.  Đâu biết rằng, anh Thành lại gọi anh Năm là cậu.  Hai anh em tâm sự một lúc…
Vẫn biết rằng, số phận của con người, kể từ thuở xa xưa, là Sinh Ly Tử Biệt.  Sinh ra là chia lìa, chết đi là từ biệt.  Đứa trẻ sinh ra đời là chia lìa xác thân với người mẹ, đó là Sinh Ly.  Con người lớn lên, nhắm mắt chết đi là từ biệt cuộc đời, đó là Tử Biệt.  Sinh Ly Tử Biệt, nghe sao đau đớn và thấm thía trong những giây phút này.  Ai trong chúng ta rồi cũng đến giây phút đó, khác nhau chỉ là sớm hay muộn mà thôi…
Thôi nhé anh Năm, vùng trời nào đó anh đã bay qua, như lời một bài hát, sẽ còn lại đây những sáng bao la, trong lòng tụi em.  Mãi mãi trong lòng tụi em, những người lính Không Quân của QLVNCH.  Anh hãy yên nghỉ trong lòng yêu thương kính mến của anh em Không Quân, của quân dân miền Nam.
Khóc Thương Anh,
Chú út phi đoàn 114
11/16/21

Tâm địa rộng rãi bao la như Trời Đất thì bao bọc được cả muôn loài.
(Hàn Thi Ngoại Truyện)

Trường Sơn Lê Xuân Nhị
tslxnhi@aol.com

 
 
Cuối tháng 2 năm nay, khi viết đôi hàng tiễn biệt cố Đại tá NGUYỄN VĂN BÁ, tôi có nhắc tới người bạn đồng khóa của ông là NT NGUYỄN HỒNG TUYỀN, nay tới lượt “anh Năm” cũng vĩnh viễn ra đi... Xin post lại để tưởng nhớ cả hai vị.
“Ông BÁ LÈO” và “Anh Năm PHÙ CÁT”
Nguyễn Hữu Thiện
 
Cuối năm 1969, sau khi tốt nghiệp Thủ Đức, tình nguyện về ngành Chiến Tranh Chính Trị (CTCT) Không Quân, tôi khăn gói ra Pleiku phục vụ tại Phòng CTCT, Căn Cứ 92 Không Quân. Trưởng phòng là Thiếu tá Lê Bá Định, chỉ huy trưởng căn cứ là Trung tá Đỗ Trang Phúc.
Qua đầu năm 1970, trong đà bành trướng của quân chủng, Căn Cứ 92 Không Quân trở thành Không Đoàn Yểm Cứ Pleiku, Không đoàn trưởng: Trung tá Võ Quế, là bào đệ của Đại tá Võ Dinh, Tham mưu trưởng BTL/KQ. Phòng CTCT trở thành Khối CTCT.
Đồng thời một đơn vị phi hành được thành lập: Không Đoàn 72 Chiến Thuật, Không đoàn trưởng: Thiếu tá NGUYỄN VĂN BÁ; cả hai không đoàn này tạm thời trực thuộc Sư Đoàn 2 KQ cho tới khi Sư Đoàn 6 KQ được thành lập năm 1972.
KĐ72CT gồm bốn phi đoàn: 530 khu trục, 229, 235 trực thăng, và 118 quan sát. Ông Lê Bá Định làm Phi đoàn trưởng 530; vì ông Định là sếp cũ (Trưởng Khối CTCT), và cũng vì nhiệm vụ của một Sĩ Quan Báo Chí đơn vị, tôi thường lui tới KĐ72CT để quan sát, tìm hiểu sinh hoạt của giới phi hành, từ đó mới biết vị Không đoàn trưởng KĐ72CT, tức Thiếu tá Nguyễn Văn Bá, thuộc hàng đại niên trưởng, gia nhập Không Quân từ thời Tây thuộc địa, có hỗn danh “Bá Lèo”.
Chỉ vài tháng sau khi ra Pleiku, Thiếu tá Nguyễn Văn Bá được thăng cấp Trung tá, và tới đầu năm 1972 thăng cấp Đại tá.
Trong năm 1971, tôi được tháp tùng ông Nguyễn Văn Bá và ông Lê Bá Định từ Pleiku bay về Sóc Trăng thăm Trung tá (sau lên Đại tá) Nguyễn Hồng Tuyền, nguyên là “thầy” của ông Định ở TTHLKQ Nha Trang ngày nào (Khóa 58A Trần Duy Kỷ).
Chỉ tới lúc đó tôi mới được biết hai vị niên trưởng Nguyễn Hồng Tuyền và Nguyễn Văn Bá là bạn cùng Khóa 53E Marrakesh.
Sau này, khi người Mỹ bàn giao CCKQ Phù Cát, Đại tá Nguyễn Hồng Tuyền rời Sóc Trăng lên tiếp nhận căn cứ; tới khi Sư Đoàn 6 KQ được thành lập vào năm 1972, CCKQ Phù Cát mang danh xưng Căn Cứ 60 Chiến Thuật.
Về phần Đại tá Nguyễn Văn Bá, mà anh em gọi một cách kính nể là ông “Bá chủ”, vào đầu năm 1972 bàn giao quyền chỉ huy KĐ72CT lại cho ông Lê Bá Định, hỗn danh “Bá đạo”, để đi Phan Rang làm Chỉ huy trưởng Căn Cứ 20 Chiến Thuật, SĐ2KQ.
Chức vụ sau cùng của ông là Chỉ huy trưởng Căn Cứ 40 Chiến Thuật,
SĐ4KQ.
* * *
Gần đây, qua sự giới thiệu của NT Lê Như Hoàn, nguyên Trưởng Khối Đặc Trách Khu Trục BTL/KQ trước năm 1975, tôi được hân hạnh liên lạc email với NT Nguyễn Hồng Tuyền - tức “người lính già Phù Cát”- và được đọc một số bài viết của vị NT có trí nhớ hơn người.
Nay, trước sự ra đi vĩnh viễn của cố NT Nguyễn Văn Bá, tôi xin phép được trích đăng một đoạn viết về Khóa 53E Marrakesh, trong đó ngoài “Ông Bá lèo” và “Anh Năm Phù Cát” còn rất nhiều vị niên trưởng nổi tiếng khác trong quân chủng, trong đó có cố Thiếu tướng Nguyễn Huy Ánh.
Hồi Ký "Một chuyến đi Tây nửa kiếp người"
* Ngày đầu cắp sách học bay
Khóa P53E 1 và P53E 2 gồm 12 Sĩ quan cùng hai Thầy đội và 36 khóa sinh binh nhì - đơ dèm cùi bắp.
 
Mười hai sĩ quan:
1- Trung úy Nguyễn Đức Hớn. Trưởng Khóa P53 E.
2- Tr/úy Đoàn Văn Bang
3- Tr/úy Nguyễn Văn Đẹp
4- Tr/úy Đỗ Xuân Khanh
5- Th/úy Chu Trọng Để
6- Th/úy Phạm Hậu
7- Th/úy Dư quốc Lương
8- Th/úy Lâm Văn Phiếu
9- Th/úy Võ Văn Sứ
10- Th/úy Lê Văn Thịnh
11- Th/úy Trần Minh Thiện
12- Ch/úy Phan Hữu Ngữ
 
Hai Thầy đội:
1- Thầy Đội Nhứt Trần Văn Nhung (Răng Vàng)
2- Thầy Đội Nguyễn Thành Mãn (Đội Ngù)
 
Ba mươi sáu lính đơ dèm cùi bắp:
1- Nguyễn Huy Ánh (Hỉnh mũi)
2- Nguyễn Văn Bá (Lèo)
3- Đinh Tấn Chi (Tấn Chì)
4- Đặng Trần Dưỡng (Văn Sỡi)
5- Bửu Đang (Núi Ngự)
6- Hồ Bảo Định (Thấp Tè)
7- Nguyễn Văn Đại (Đại Du)
8- Nguyễn Văn Du (Du Đại)
9- Ông Lợi Hồng (Đại Cù Lũ)
10- Nguyễn Văn Hương (Lại Quan)
11- Nguyễn Văn Hòa (Thục Quan).
12- Trần Văn Hội Jacques (Hôi Nách)
13- Trần Văn Hội (Lùn)
14- Hồ Văn Ứng Kiệt (Peur de Fantome)
15- Nguyễn Thiện Kiều (Mỉm Chi)
16- Bùi Quang Kinh (Xúc Vai)
17- Đặng Huy Lạng (Xẹo)
18- Phạm Công Minh (Ma-Crô)
19- Trần Tấn Nhứt (Nasser)
20- Phan Thế Nghiệp (Lính Bịnh)
21- Nguyễn Quan Phúc (Et Quoi)
22- Công Xuân Phương (Lém)
23- Ngô Văn Quang (Thầy Giáo Làng)
24- Ôn Văn Tài (Còi)
25- Nguyễn Hồng Tuyền (Mập)
26- Võ Thành Tâm
27- Nguyễn Sơn Tòng (Tây Con)
28- Nguyễn Thế Thân (Bristogne)
29- Châu Quang Thanh (Phệ)
30- Nguyễn Hữu Trí (Già Háp)
31- Nguyễn Tấn Trinh (Kim Liên)
32- Nguyễn Văn Trang (Dựt Gân)
33- Lê Quốc Túy (Le Coq)
34- Nguyễn Đình Tuân (Ngắn)
35- Nguyễn Anh Tuấn (Tuấn Mập)
36- Nguyễn Anh Tuấn (Tuấn Lụi)
 
CHÚ THÍCH: nickname của 2 Thầy Đội và 36 vị “đơ dèm cùi bắp” do đích thân “anh Năm” ghi ra; ngày đó chắc “anh Năm” ăn bơ uống sữa nhiều nên mới có nickname “Tuyền mập”.
HÌNH:
Phù hiệu CC92KQ với núi Hàm Rồng (KQ gọi là Núi Lìn)
“Anh Năm Phù Cát”
“Ông Bá Lèo” (đứng giữa tay cầm điếu thuốc) chụp chung với hoa tiêu Phi Đoàn 530
 
  Người Ăn Mày Mé Láng 

Thiên Phong Nguyễn Hồng Tuyền

 

Một buổi chiều mùa hè, trời mưa khá to nổi bong bóng. Dòng nước cuốn dài theo bờ măng trên đường Lê Thánh Tôn chảy về phía đường Nguyễn Huệ kéo theo tất cả rác rến dân chúng xả ra đường che lấp các miệng ống cống thoát nước của đô thành, làm nước tràn thành vũng lên các bờ măng trên đường đi. Xe tôi ngừng trước cửa của hãng Hàng Không Việt Nam, tôi bước vào cửa cầu thang lên văn phòng. Cánh cửa vừa mở tôi gặp ngay ông già Tư Râu độ chừng năm mươi tuổi ăn xin thường túc trực hơn hai tháng nay nơi cột đèn trước cửa HKVN. Ông tìm sự giúp đỡ của tha nhân kẻ đi qua người đi lại để sống độ nhựt. Thân trần trùi trụi, lòi các ba sườn của người lớn tuổi thiếu dinh dưỡng, các vết thương nhiều đốm đen lớn nhỏ còn rỉ máu và nước vàng trên lưng. Phía sau hai cánh tay ốm tong teo chỉ còn da nhiều hơn thịt. Vừa thấy tôi bước vào ông vội lật đật ôm hành trang là chiếc bao bố tời gói ghém tất cả gia tài sự nghiệp của đời không nơi nương tựa trong tuổi xế chiều, định bước đi ra ngoài.

– Sao Ông Tư Râu, ăn cơm chưa, hôm nay có khá không? Ngoài trời mưa to gió lớn thổi lạnh lắm, đứng đó đi để tôi bảo ông Hai gác dan đem cho ông cái áo mặt đỡ lạnh…

– Dạ…

Tiếng run run có vẻ vì lạnh và các vết thương trên người đang hành ông. Tôi vừa bước cửa vào văn phòng thấy ông Hai đang quét dọn lau chùi bàn ghế.
 Chào ông Phó…
– Chào ông Hai. Soạn trong quần áo đánh tơ nít của tôi có cái áo nào ấm ấm và chiếc quần dài đem xuống cho ông Tư Râu mặt đỡ lạnh rồi bảo ông lên đây gặp tôi ở phòng họp.
– Dạ… Ông Hai gác dan đi ra mà chưa hiểu ý tôi nên hỏi lại. Ông Phó bảo tôi dẫn ông Tư Râu lên phòng họp?
– Ðúng rồi…

Tôi đợi chừng mười lăm phút, bước ra cầu thang nhìn xuống thấy ông Hai và ông Tư Râu đang dằng co, kẻ kéo tay người dằng lại, có tiếng của ông Hai: Anh Tư ơi! lên đi đừng để Ông Phó đợi trên đó… phiền lắm. Tôi liền bảo:
 Ông Tư Râu ơi, lên đây tôi có chút việc muốn nói với ông.

Chờ ông Tư Râu bước lên khỏi cầu thang, quần áo chỉnh tề vào phòng họp tôi chỉ ghế ngồi, ông còn chần chừ chưa dám ngồi, còn đứng xớ rớ lòng đang bỡ ngỡ nhìn chung quanh…
– Ngồi đi ông Tư Râu ơi!

Ông ngồi ghé ngoài mép bờ ghế và ôm trong lòng túi balô, nhìn tôi trong ánh mắt dò hỏi có chuyện gì đây…
– Ông Tư Râu nên ngồi tự nhiên đi, để cái balô xuống sàn, mình còn nói chuyện cùng nhau lâu lâu một chút.

Ông Tư Râu ngồi tử tế trên ghế, ông Hai đem hai tách nước trà vô, tôi mời ông Tư Râu dùng trà cho ấm. Tôi hỏi ông Tư Râu vài câu xin ông thành thật trả lời cho tôi thì tôi có thể giúp ông để chữa có thể lành các vết thương trên người ông. Hôm trước cách đây hai tuần, khi ông ngồi trước cột đèn vào buổi trưa, ông cởi áo ngồi khóc vừa rên vì các vết thương hành hạ ông.
Tôi có hỏi ông vì sao bị thương vậy, ông còn do dự không muốn trả lời. Tôi có nói thêm, ông nói đi tôi có thể giúp ông chữa bịnh mà không tốn tiền đâu mà lo.

Ông Tư Râu nhìn tôi với đôi mắt bơ phờ nửa tin nửa ngờ vực của người quá đau khổ trong tâm tư. Im lặng không một lời nói, nhìn lên trời cao xanh như đang tìm những dĩ vãng đau thương hay để đánh giá một tia hy vọng nào đó trong lời hứa của tôi cho cuộc đời ông.
– Hôm nay tôi xin lặp lại lời hứa hôm trước đó, ông Tư Râu suy nghĩ sao cho tôi biết ý kiến.

Ông Tư Râu mắt sáng lên như người đi lạc giữa rừng rậm hoang vu gặp được ông tiều phu chỉ đường ra khỏi cơn mê hồn trận mới chịu mở miệng:
– Ông Phó hứa… giúp tôi đây… không biết tôi lấy gì để đền đáp… công… ơn đó… (tiếng nói ông Tư Râu sùi sụt đứt khoảng hai hàng lệ rơi có lẽ vì quá cảm động), làm cho tôi cũng thấy mủi lòng. Nhờ thánh thần thiên địa phù hộ cho tôi gặp được quới nhơn giúp đỡ. Chẳng nói dấu gì với Ông Phó, tôi tên là Châu Văn Tư sanh đẻ 1920 tại quận Ba Ðộng tỉnh Trà Vinh (vừa nói vừa cúi xuống balô mở ra lấy thẻ kiểm tra còn khá mới trong cái bóp da đã cũ kỹ đưa cho tôi xem). Lớn lên trong nghề đánh cá mùa gió êm, làm ruộng mùa mưa bão, sống với gia đình ở quân Ba Ðộng. Sau lấy vợ tên Ðào Thị Nở sanh năm 1924 ở làng Mé Láng cùng nghề làm ruộng. Thời cụ Ngô Đình Diệm làm tổng thống tôi có đi lính Địa Phương Quân, rồi được bầu làm xã trưởng một xã của làng Mé Láng quận Ba Động tỉnh Trà Vinh. Vùng thường đụng độ chết sống với tụi du kích địa phương để bảo vệ dân làng trong tám năm. Cũng có nhiều ân oán thù hận giang hồ, tôi có được hai người con trai sau cũng đi lính Ðịa Phương Quân, chưa lập gia đình cũng ở Mé Láng.

Ngày đầu tháng giêng ta năm 1962, một tiểu đoàn viêt cộng chánh quy từ miền Bắc xâm nhập bằng ghe máy đổ bộ lên làng Mé Láng trong một đêm mưa gió bão bùng. Làng báo cáo lên quận rồi quận lên tỉnh, sáng ngày sau cuộc hành quân từ tỉnh đổ quân xuống một tiểu đoàn Ðịa Phương Quân tỉnh xuống làng Mé Láng, trời mờ mờ sáu giờ sáng cho đến mười giờ trưa hai bên dằng co với nhau làng Mé Láng thành tro bụi, dân làng, nghiã quân, địa phương quân, nhân dân tự vệ chết cũng nhiều trong đó có vợ và hai thằng con trai của tôi vì cháy không nhìn được xác. Vào khoảng mười giờ có một tiểu đoàn chính quy của bên ta Biệt động quân đổ xuống tiếp viện có máy bay săn giặc và đầm già đến yểm trợ cuộc hành quân đánh tụi nó tan tành banh xà rông. Lúc máy bay đến chúng tôi rút lui từ trong làng về hướng quân bạn ngoài ruộng lúa. Trời thần đất mẹ ơi, tụi nó đeo dính khắng theo, bị phi cơ thả một trái bom đầu tiên nổ ra vùng ánh sáng xanh chụp rớt xuống đụng đâu cháy đó, nước, cây cỏ, đất sình gì cũng cháy hết trơn hết trọi hà. Quỷ thần thiên địa ơi, tui là người chạy đầu, xa gốc trái bom nổ chụp ở ngọn trúng sau lưng tui năm mười ánh sáng thôi mà thấy nóng. Tui chui xuống nước còn nóng hơn nữa, đứng dậy cởi áo bỏ ra nhìn phía sau đám việt cộng bị cháy lên khói, chết quá xá cỡ thợ mộc… Tui cố gắng chạy trối chết về phía quân tiếp viện vvà bất tỉnh luôn… cho đến khi mở mắt ra thì thấy đang nằm điều trị ở bênh viện tỉnh Trà Vinh. Tui nằm úp mặt xuống, ở trần truồng nhòng nhọng mình mẩy tui được thoa một chất nhớt nhớt và đắp nước đá có rất nhiều mục đen chấm nhỏ nhỏ bằng đầu ngón tay út sau lưng, giây nhợ tùm lum tùm la… nhưng vẫn còn thấy nóng. Các ông y tá khi thấy tôi mở mắt mừng rỡ la lên: Ông Tư tỉnh rồi. Sau đó có hai vị bác sĩ một Mỹ, một Việt đến thăm có hỏi tôi còn nóng nhiều ít, tôi trả lời ít. Ông bác sĩ Mỹ nói, bác sĩ Việt dịch là tôi đã sống lại rồi, nhưng còn phải tinh dưỡng lâu lâu. Sau hai tháng ở bịnh viện tỉnh các mụt chấm đen nhỏ đã kéo da non tôi được xuất viện cho về nhà. Trời đất quỷ thần thiên địa ơi, ông Tư Râu nói trong tiếng nấc, vợ bị chết cháy không nhìn được xác và hai đứa con trai đều hy sinh trong trận đánh ở Mé Láng. Nhà cửa cháy rụi, bây giờ chỉ còn tấm thân tàn ma dại nầy trên cõi đời ô trọc thôi. Tui không thể trở về sống ở Mé Láng được vì lúc nầy tụi nó về đông lắm. (Tính ra ông Tư Râu mới có bốn mươi bốn tuổi mà thấy già như ông già sáu bảy mươi tuổi vậy.)

Từ đó tui rời bỏ xứ sở ra đi lên Sài Gòn để kiếm thằng em đi lính nhảy dù không ngờ nó đã chết trong trận Bào Sung. Không kiếm được việc làm vì các ông chủ thấy những vết thương tưởng đâu tôi bị bịnh cùi lở. Tui sống lây lất đầu đường xó chợ tha phương cầu thực, tối ngủ dưới các gầm cầu qua những đêm mưa gió bão bùng. Các vết thương lâu lâu nó nóng lên chảy nước vàng lở ra càng ngày càng lớn thêm có những đêm trời mưa lạnh nó nhức tận xương tủy chỉ còn có nước ngồi đâu đó dưới hàng hiên chợ Bến Thành chịu trận cho qua đêm.

Ðôi mắt ông Tư Râu mờ lệ nhìn ra cửa sổ như hồi tưởng lại những nỗi kinh hoàng trông đêm việt cộng tấn công tàn sát dân làng Mé Láng năm xưa. Khi ông Tư Râu dứt lời, tôi bảo:
 Trễ lắm trong tuần nầy tôi cố gắng tìm chỗ để chữa những vết thương cho ông Tư.

Tôi xách hộ cái balô của ông Tư Râu đưa ông xuống cầu thang, trời đã hết mưa, để ông ra chỗ cột đèn tiếp tục cuộc đời hành khất của ông. Ông nói cám ơn tôi với khuôn mặt vui tươi đầy hy vọng. Tôi trở lại văn phòng ngồi trầm ngâm lòng tôi se thắt lại, đau khổ cho dân tộc Việt sao quá nhiều thảm cảnh thương đau. Dân chúng giữa hai lằn đạn Quốc gia và Cộng sản quá tàn nhẩn và ê chề trong cảnh chiến tranh vì miền Bắc vô thần đem trận giặc vào Nam gây không biết bao nhiêu cảnh điêu tàn tang tóc cho dân tộc Việt.

Mé Láng một làng nhỏ của quận Ba Ðộng tỉnh Trà Vinh. Tôi còn nhớ rõ một buổi sớm mai, trong phi vụ hành quân đời phi công khu trục, tôi bay cùng Ðại úy Faucett huấn luyện viên Không Lực Hoa kỳ của Phi Ðòan Farm Gate để định chuẩn ra phi tuần trưởng khu trục.
Mé Láng, lần đầu đời tôi mới nghe đến địa danh đó nếu không có trận chiến tranh Việt Nam. Một làng nhỏ bên trong nhiều thửa ruộng được cấy lúa lên màu xanh lơ nhiều miếng vườn cây ăn trái lá cành xanh um. Bên ngoài mé bờ biển giáp nối với Thái Bình Dương thật nên thơ ngoạn mục, nếu không có chiến tranh Mé Láng là nơi lý tưởng để sống cuộc đời an nhàn thanh tịnh.
Chúng tôi cất cánh từ phi trường Biên Hòa, một phi tuần nặng bốn phi cơ T28 mang bom WP (White Phosphorous, Lân tinh), và hỏa tiễn 2.75. Khi vừa đến, liên lạc được với phi cơ quan sát bắn trái khói màu chỉ điểm mục tiêu. Tôi nhìn xuống đó là một xóm làng độ chừng hai trăm căn, nhà lá có, nhà gạch ngói có đang cháy khói tỏa mịt mù thẳng lên trời vì hôm nay yên lặng không có gió. Sau khi đánh hỏa tiễn xong mục nói trên, chúng tôi bay về hướng tây cách Mé Láng chừng hơn hai cây số. Nơi quân bạn Biệt Ðộng Quân đang đụng độ với địch cố thủ trong một miếng vườn xanh tươi cây trái sum suê chừng năm mẫu tây. Quân địch đào hố và công sự phòng thủ kiên cố chung quanh là những miếng ruộng lúa lên xanh tươi đầy nước nên quân bạn khó tấn công vào mục tiêu vì không có điểm tựa. Ðại úy Faucett cho tôi biết mình sẽ đánh bom WP Lân tinh) và yêu cầu tôi báo cho quân bạn đừng vào chiếm mục tiêu sau khi đánh bom WP. Vì sợ lân tinh sẽ làm thương tích cho quân bạn, phải đợi ít lắm là một tuần lễ để lân tinh cháy hết rồi hãy vào. Ðây là lần đầu tiên dùng bom WP (Lân Tinh) trên chiến trường Việt Nam. Tôi thông báo cho phi cơ quan sát và quân bạn xong, chúng tôi nhào xuống thả trái bom WP đầu tiên nổ tỏa ra một vùng ánh sáng trắng xanh như hoa pháo bông bao trùm chừng năm mươi thước ngoài ngọn những đốm trắng li ti thật đẹp rớt xuống nước vẫn còn cháy lên khói… Phi tuần bốn phi cơ đánh trong vòng hai mươi phút miếng vườn cháy và lên khói hoàn toàn cây lá vàng đen cháy úa. Một bức họa chiến tranh điêu tàn khủng khiếp làm lòng tôi xốn xang đau xót cho người dân Việt phải chịu cảnh màn trời chiếu đất khi làng xã bị đốt cháy tan hoang.

Phi tuần đánh xong trở về căn cứ Biên Hòa vô sự. Tôi có hỏi Ðại uý Faucett tại sao quân bạn không chiếm mục tiêu liền được thì được trả lời: Phải chờ cho Lân Tinh cháy hết rồi mới vào chiếm mục tiêu vì rất nguy hiểm cho quân bạn có thể bị cháy nếu đạp lên Lân tinh. Tôi không ngờ ba năm sau tôi gặp lại ông Tư Râu nạn nhân của cuộc đánh bom Lân tinh ngày đó ở Mé Láng, làm lòng tôi ân hận đau xót nghẹn ngào thương cho người dân vô tội phải chịu trăm cay ngàn đắng trong cuộc chiến chống xâm lăng.
Chiều hôm nay tôi về sớm lên căn cứ Tân Sân Nhứt tìm ông bác sĩ Giụ, Y sĩ trưởng Trung Tâm Y Khoa KQ, xem ông có giúp đỡ gì được ông Tư Râu không. Bác sĩ Giụ bảo về vấn đề lân tinh lúc đó KQVN chưa có khả  năng chữa cho, ông đề nghị tôi ra ngoài Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ (US Army 3rd Field Hospital) của Mỹ đóng trước cổng Phi Long xem sao? Tôi ra tìm bác sĩ Newman y sĩ trưởng của Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ tôi thường liên lạc với ông trong những trường hợp cấp cứu khẩn cấp khi có phi cơ lâm nạn, lúc tôi làm chỉ huy trưởng căn cứ Tân Sân Nhứt vào năm 1964. Tôi được gặp ông Newman trình bày về tình trạng của ông Tư Râu, vì những vết thương từ trái bom Lân Tinh, ông bảo sẽ cố gắng chữa cho ông Tư Râu nhưng không dám hứa sẽ lành bệnh. 

Ðược lời như cởi bớt đau buồn, trên đường về nhà khu cư xá Hàng Không Việt Nam ở đường Ðinh Tiên Hoàng Ðakao. Tâm tôi cầu nguyện mong sao việc cứu chữa cho ông Tư Râu được kết quả mỹ mãn để lòng tôi vơi đi được chút tình buồn ân hận và lương tâm đỡ cắn rứt của đời phi công khu trục. Một đêm trằn trọc không nhắm mắt ngủ được, chỉ mong cho mau sáng để đem ông Tư Râu đi chữa bệnh. Vào lúc một giờ sáng nghe tiếng nổ của pháo kích và tiếng còi báo động hụ lên từng chập trong đêm khuya âm u như nhắc nhở dân chúng thần chết đang lảng vảng trên không phận Sàigòn. Tiếng còi xe cứu thương bí bo nghe lanh lãnh rợn người từ nhiều nơi đồng hướng về phía sân bay Tân Sân Nhứt. Sáng tôi đi làm đem theo một quần dài, một áo sơ mi, một áo thun lót và đôi dép cho ông Tư Râu thay để đi chữa bệnh. Sáng nay vào văn phòng tôi có bảo ông Hai chừng nào ông Tư Râu đến chỉ vào phòng tắm cho ông tắm rửa thay quần áo để đi chữa các vết thương trên người ông. Chừng nào xong cho tôi biết. Ngồi trên văn phòng từng hai của trụ sở Hàng Không Việt Nam nhìn xuống đường Nguyễn Huệ hôm nay thứ sáu trời đẹp nắng ấm. Trước cửa toà Ðô Chính cũng vắng bóng các sinh viên biểu tình yêu cầu ông thị trưởng Văn Văn Của thả các sinh viên ra về tội chống đối chánh phủ của người nghèo do Thiếu Tướng KQ Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung ương. Ở bên kia đường rạp hát bóng Rex dân chúng đi xem xuất mười giờ sáng khá đông, tuồng ‘Vertigo’ của Alfred Hitchkock do hai tài tử thượng thặng thủ vai nam chánh James Stewart và vai nữ Kim Novak. Ngày mai tôi dự định đem Nhỏ và hai con Thiên Nga và Hồng Hải đi xem phim Vertigo.

Tiếng gõ cửa ông Hai dẫn ông Tư Râu vào quần áo chỉnh tề tuy có hơi rộng, tóc chải cột phía sau, và râu đã cạo thành ra ông Tư không râu nhìn thấy như người trẻ ra hơn mười tuổi. Tôi bảo:
– Ông Tư cạo râu rồi trẻ ra mà đẹp trai nữa. Ông Tư cười vui ra mặt. Hôm nay tôi sẽ đưa ông Tư đi chữa các vết thương trong bệnh viện Mỹ ở Tân Sơn Nhứt. Bây giờ ông đem tất cả đồ đạc trong bao bố tời ra xem thứ quần áo gì cũ rách vá tả tơi và những dụng cụ như đôi đũa mun, cái muỗng bạc, cái ca và bi đông đựng nước của quân đội không cần thiết bỏ hết đi.

Cuối cùng tất cả quần áo cũ đồ đạc bỏ đi gia tài sự nghiệp chỉ còn lại một cái muỗng bạc, cái bóp cũ kỹ một gói cuộn giấy báo quấn giây thun và tấm ảnh. Ông Tư cầm ảnh lên rồi ôm vào ngực hai dòng lệ nóng chảy tuôn xuống đôi má hóp khô cằn. Ông nhìn ra phương trời xa xôi như muốn gởi lòng mình về tận hướng làng Mé Láng cố mong tìm lại hình bóng thân yêu của người vợ, một giọng nức nở nghẹn ngào… Trời ơi!!! em Nở ơi! Sao đời anh khổ quá vậy nè… Ông Hai bỏ đi ra ngoài, tôi cũng mủi lòng ngồi yên im lặng quay mặt đi chỗ khác để che dấu hai hàng lệ từ từ chảy như để chia sẻ nỗi đau khổ của ông Tư Râu mà lòng tôi tự hỏi: Vì đâu và tại sao Dân Việt… Hận thù nhau? Chém giết lẫn nhau. Oan Nghiệt ơi? Ðau thương ơi?.. Sau cùng nỗi buồn lòng đã lắng xuống ôngTư Râu cầm gói giấy báo vừa mở ra đưa cho tôi xem toàn là giấy một đồng, năm đồng, mười đồng, và nói:
– Chẳng nói dấu gì ông Phó, mấy năm nay tôi đi xin được cần kiệm gom góp một số tiền là hai ngàn hai trăm đồng để mong ngày nào đem về làng Mé Láng xây lại mồ mả cho vợ con.

Ông Tư Râu như còn luyến tiếc ngồi mân mê quần áo và các món đồ dùng trong balô vừa tính bỏ đi có lẽ các món hành trang đã theo ông để chia sẻ những nỗi buồn vui trong cuộc đời hành khất bao nhiêu năm qua vì họa chiến tranh. Tôi liền bảo:
Thôi cái balô của ông cứ giữ đây và tôi cất giùm cho, chừng nào chữa bênh xong rồi về đây lấy lại. Tôi sẽ biếu cho Ông Tư bằng số tiền giấy lẻ đó, bốn tờ giấy năm trăm và hai tờ một trăm để bỏ vào bóp cho tiện. Còn số tiền lẻ đó ông Tư gói lại cho kỹ cất vào trong balô tôi giữ đây cho ông Tư để ngày nào chữa hết bịnh trở về đây nhận lại balô. Chờ cơ hội thuận tiện đem tiền đó về xây mồ mả vợ con.

Ông Tư Râu nhìn tôi với đôi mắt vẻ ngờ ngợ gật đầu hình như chưa tin được khi nghe những lời tôi vừa cho ông biết và lặp lại:
 Ông Phó cho tôi tiền chẳn và giữ lại số tiền lẻ sau khi tôi lành bịnh, ông Phó cho tôi về xây mồ mả vợ con… phải không?
– Ðúng rồi ông Tư ơi!!!

Ông Tư liền tuột xuống đất quỵ lạy tôi để tỏ cử chỉ cám ơn tôi vừa nói:
– Trời thần thiên địa ơi!.. Câu nói chưa dứt, tôi vội đỡ ông Tư đứng lên hai tay ông còn run vì quá xúc động và tôi nói:
– Ông Tư ơi, đừng làm vậy khổ lòng tôi! Thôi mình ra xe đi lên bịnh viện đừng để trễ giờ hẹn.
– Cám ơn ông Phó.

Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ (US Army 3rd Field Hospital)

Chúng tôi ra xe trực chỉ về hướng Tân Sơn Nhứt, tôi cho ông Tư Râu biết sẽ được vào bệnh viện Mỹ để điều trị. Tôi đã lo xong rồi ông Tư khỏi lo lắng gì hết cứ yên tâm mà chữa trị. Trên đường đi, tôi ghé tiệm phở bà Dậu để dùng trưa, nhìn ông Tư râu ăn tô phở nóng gắp từng miếng thịt, từng miếng bánh phở cọng rau thơm và húp muỗng nước lèo cuối cùng. Ông Tư uống ly chanh muối ngon lành làm lòng tôi vơi bớt nỗi ân hận buồn đau vì đã gây thương tích cho một người dân mà cũng là một chiến hữu đồng chiến tuyến với tôi. 

Chúng tôi đến Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ thấy có rất nhiều người Việt đứng lố nhố trước văn phòng. Kẻ khóc sướt mướt người than trách thánh thần, khi người thơ ký đưa vào ngồi chờ bác sĩ Newman. Chúng tôi mới biết trong đêm qua việt cộng pháo kích căn cứ Tân Sân Nhứt lạc ra khu phố đường Trương Minh Giảng cách Lăng Cha Cả vài trăm thước làm thiệt mạng bốn người lớn, sáu trẻ em và hơn hai mươi người bị thương toàn là đám người dân vô tội. Ông Bác sĩ Newman cùng nhân viên bệnh viện đang cấp cứu các nạn nhân bị thương tích trong một phòng riêng biệt phía cuối bệnh viện. Chúng tôi chờ chừng mười lăm phút, ông bác sĩ Newman trở về, bước vào văn phòng, nhìn ông trong bộ quần áo bác sĩ xanh mầu da trời dính đầy máu vì ông đã cùng các bác sĩ khác và ý tá của bệnh viện làm trọn đêm cứu cấp các nạn nhân bị thương tích vì pháo kích. Tôi đứng dậy bắt tay ông và giới thiệu ông Tư Râu. Chúng tôi được bác sĩ Newman đưa xuống phòng chữa bệnh nhiều bệnh nhân người Việt bị thương trong đêm qua. Y tá chỉ cho ông Tư một cái ghế bố trong phòng bệnh nhân có người y tá Việt thông dịch viên lại làm giấy tờ nhập viện cho ông Tư. Bác sĩ Newman bảo tôi cho ông Tư biết phải nằm đây chừng hai tháng để chữa vì phải lấy thịt các vết thương ra thử xem lân tinh có ăn thấu vào tới xương chưa. Cắt các vùng thịt bị nhiễm lân tinh bỏ đi rồi mới lấy da ở bụng và nơi đùi đắp vào các vết thương. Cả một công trình cứu chữa nhiều vất vả phải cần đến bàn tay các bác sĩ chuyên môn để chữa trị. Bác sĩ Newman nhờ tôi hỏi ý kiến ông Tư, vì ông còn mạnh khoẻ đi đứng được nên cũng giúp đỡ quét dọn trong phòng các bệnh nhân khi cần. Còn khi nào nằm chữa bệnh thì thôi. Tôi báo ông Tư biết và hứa sẽ vào thăm ông Tư hàng tuần hoặc khi cần thiết và ông Tư phải ký giấy tờ chịu trách nhiệm về việc cứu chữa vì không có thân nhân, và tôi ký tên làm chứng. Ông Tư thay đồ ra mặt quần áo bệnh viện lên nằm nghiêng trên ghế bố để y tá lấy máu các thớ thịt mẫu trên các vết thương đem thử nghiệm.

Tôi từ giã ông Tư và chào bác sĩ Newman ra về và không quên để số điện thoại lại khi có việc cần văn phòng thông báo cho tôi rõ. Trở về phần sở tôi theo đường Trương Minh Giảng vừa qua khỏi Lăng Cha Cả những nhà cửa còn bốc lên những đám khói cuối cùng mà các anh em sở chữa lửa đô thành đang cố gắng dập tắt.

Bên lề đường kẻ ngồi đang khóc cho người thân đã chết trong đêm qua. Người đứng khoanh tay rầu rĩ tiếc của nhìn cảnh nhà cháy tan tành đang lo cho ngày mai vợ chồng con cái biết lấy đâu để làm mái ấm, phải sống màn trời chiếu đất. Trường hợp người dân lành vô tội, như hoàn cảnh ông Tư Râu và dân tình Mé Láng, người dân thành thị đường Trương Minh Giảng, họ lưỡng đầu thọ… đạn địch và bạn, dân thành thi thì ăn… đạn pháo 122ly của đám giặc Hồ vô thần tàn ác, dân thôn quê thì hưởng… bom WP vô tình của quân bạn, thật trớ trêu cho cảnh người dân vô tội của một nước nhược tiểu phải chịu tai ách oan ương giữa hai giòng lý tưởng Tự do và Cộng sản đang tranh dành nhau trên mảnh đất Việt thân yêu. Còn những người Mỹ như ông bác sĩ Newman chẳng hạn, từ một phương trời xa lạ nào đó đã rời bỏ mái ấm gia đình vợ con để đến nơi nầy ra tay cứu chữa cho các nạn nhân bị pháo kích trong đêm qua. Nhưng thanh niên Mỹ ở những nơi đèo heo hút gió ngày đêm ghìm súng giữ giặc nơi Ashau, Alưới, Khe Sanh, U Minh, Chương Thiện, Ðổ Xá, Ðak Tô, Ðak Sút, Bình Ðịnh, Hoài Ân… những chiến trường dầu sôi lửa bỏng trên phần đất mà không phải quê hương của họ. Có khi hy sinh cả tánh mạng trong những phi vụ như Tr/Úy O’Connor đã gãy cánh cùng Th/úy Võ Trường Chí trên chiến trường đẫm máu miền đồng bằng sông Cửu Long trong buổi sáng mờ sương. Một Ðại/Tá Sauers ngày chót trong phi vụ cuối cùng tua cố vấn hai năm cho Sư Ðoàn 4 KQ VNCH đã về miền miên viễn cùng Thiếu Tướng Nguyễn Huy Ánh Tư lệnh Sư Ðoàn 4 KQ. Nhưng mà họ đang giúp giữ hai chử ‘’Tự Do’’ trên mảnh đất miền Nam cho dân tộc Việt. Chỉ nói vì tình người xin đừng bàn về chánh trị, họ là các người anh hùng vô danh, họ hưởng được gì, phải chăng hưởng vài vòng hoa chiến thắng hoặc vài tấm bảng khẩu hiệu ‘’Hoan Hô’’. Nhưng cuối cùng họ hưởng không ít sự hận thù chửi rủa của những tở báo miền Nam thân cộng hay các nhà Sư, các ông Cha hòa hơp hòa giải và cả một số dân chúng hưởng được Mỹ viện trợ. Họ và chánh phủ họ không màng đến được trả ơn. Và khi họ dứt hai năm nhiệm vụ ở VN, khi trở về Mỹ được bọn phản chiến dẫn đầu là Jane Fonda và chồng Tom Hayden chào đón với những câu chửi rủa tàn tệ, nào kẻ giết trẻ thơ, giết ông già bà cả.

Tôi ngừng xe lại vì có hồi còi hụ của xe cứu thương chạy ngược chìều, đang sắp ngừng đậu trước một căn nhà tường gạch sụp đổ cháy tiêu tan. Người mẹ đang hớt hơ hớt hãi chạy theo một anh lính chữa lửa đang bồng trên tay một em bé đầu xanh vô tội chừng bốn năm tuổi máu me đầy người còn thoi thóp được tìm thấy dưới đống gạch vụn vách tường đổ vỡ.

Anh lính chữa lửa đang hối hả chạy đem ra xe cứu thương, các anh em y tá cho em thở oxy cửa xe đóng lại xe hụ còi inh ỏi chạy về hướng bệnh viện đô thành. Xe cứu thương xa khuất dần trên đường Trương Minh Giảng. Tôi rồ máy xe chạy đi mắt mờ, lòng bùi ngùi thương cảm tình cảnh người dân Việt đau thương, tội tự hỏi tại sao dân tộc tôi phải chịu nhiều cảnh ngang trái. Hận Thù ơi!!!… Ðau thương ơi!!!… Oan Nghiệt ơi!!!.. Cho đến bao giờ mới chấm dứt cảnh tương tàn. Những hình ảnh vừa qua làm tôi nhớ đến Nhỏ và các con tôi đang làm gì giờ nầy. Trên đường về sở làm tôi ghé xe qua nhà thăm một chút Nhỏ và con tôi. Xe vừa qua đường Ðinh Tiên Hoàng để rẽ vào cư xá Hàng Không Việt Nam, tôi vừa ngừng lại ở sân đậu trước nhà, nhìn ngoài bãi cỏ Nhỏ tôi và các con Thiên Nga, Hồng Hải ‘’Tímunchô’’ đang vui đùa trên bãi cỏ xanh trước nhà. Nhỏ tôi và Thiên Nga đang chơi cút bắt, còn Tímunchô đang tập đạp chiếc xe máy ông nội vừa mua cho trong tuần vừa qua, một bức họa thanh bình gia đình quá êm đẹp giữa mùa ly loạn đã làm ấm lại lòng tôi. Bước vội vã về hướng Nhỏ và các con tôi, Tímunchô vừa nhìn thấy tôi la lên: Bố dề… Bố dề… Tôi tới ôm Thiên Nga, Tímunchô và Nhỏ tôi vào lòng. Trong vòng tay tôi là cả một bầu không gian hạnh phúc tràn đầy mà tôi nguyện lòng sẽ cố gắng giữ mãi… Tiếng nói líu lo Thiên Nga, Tímunchô… Sao Bố dề sớm dậy… Sao Bố dề sớm dậy….Tímunchô ngước mặt nhìn tôi… Hai giọt lệ vô tình đã rơi vào mặt con… Sao Bố khóc dậy Bố… Không, Bố đâu có khóc đâu vì cái nón của Tínmunchô quẹt trúng vào mắt bố nên chảy nước mắt đó thôi. Nhỏ nhìn thẳng vào mắt tôi tiếng êm dịu hỏi… Có chuyện gì vậy Bố… Tôi tươi cười trả lời… Có chuyện… chiều nay đi xem hát bóng tuồng Vertigo… ở rạp Rex, suất bốn giờ cho đến chừng cỡ bảy giờ ra đi ăn cơm tiệm luôn, Nhỏ khỏi phải nấu cơm. Có tiếng đồng thanh hoan hô của Thiên Nga và Tímunchô.

Sau ba ngày, tôi được điện thoại chiều hôm qua cô thư ký ông bác sĩ Newman gọi cho biết lên gấp. Tình trạng ông Tư đang gặp khó khăn trong việc chữa trị khi đang mổ các vết thương để lấy các vùng thịt bị nhiễm lân tinh ra bỏ đi thì bị xốc bất tỉnh. Hôm nay sẵn dịp lênTân Sân Nhứt giải quyết vấn đề lương tháng mười ba cho các nhân viên HKVN. Tối ghé qua thăm ông Tư Râu xem tình trạng như thế nào, trên đường đi lên TSN lòng tôi như tơ vò trăm mối. Lo cho tính mạng Ông Tư Râu nếu có mệnh hệ gì muôn phần trách nhiệm về tôi. Lòng tôi muốn cứu ông Tư Râu đem đi chữa bịnh lại hại đời ông. Tôi tự hỏi sao Trời Phật, Chúa lại để cho đời tôi vào ngõ cụt, trong tình huống nghẹn ngào nghịch cảnh như thế nầy. Tôi không biết làm gì hơn vì ngoài tầm tay nhỏ bé của tôi, chỉ còn lòng kính cẩn dâng lời nguyện cầu xin Phật, Chúa phù hộ giúp đỡ cho ông Tư Râu tai qua nạn khỏi trong tình trạng thập tử nhứt sanh nầy. Sau nửa giờ xe đến cổng bộ Tổng Tham Mưu QÐVNCH, tôi rẽ xe vào hướng đến cửa Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ. Hôm nay bệnh viện có lẽ trở lại bình thường vì các nạn nhân bị thương trong vụ pháo kích vừa qua đã được chăm sóc trong lúc khẩn cấp và được di tản về các bệnh viện đô thành hết rồi. Tôi bước vào cửa văn phòng thư ký, ông bác sĩ Y sĩ trưởng Newman cũng vừa vào đến bắt tay tôi và bảo: Tất cả đều xong tốt cả rồi, ông Tư Râu đã tỉnh lại và đang được chăm sóc ở phòng hồi sinh.

Tôi theo chân bác sĩ Newman vào thăm ông Tư Râu, đang nằm thở đều đều được ghi trên máy đo tim. Giây nhợ tùm lum như người phi hành gia sắp lên cung trăng, mang ống hơi thở dưỡng khí, dây truyền máu vào tay. Sau khi bác sĩ Newman thăm nghe tim phổi và bảo với tôi mọi sự đều tốt cho ông Tư Râu. Tôi nhìn lên trời thầm cám ơn Trời, Phật, Chúa đã đáp lời cầu nguyện của tôi cho ông Tư Râu được bình an. Ông nằm sấp trên giường bệnh trải ra trắng, đầu nằm nghiêng qua bên tay phải thở đều đều, trên hai cánh tay và lưng những vết mổ được băng bó kỹ càng sau khi mổ xong. Tôi đếm được tám vết trên lưng và sáu vết trên hai cánh tay ông Tư Râu. Mười bốn vết hằn được ghi lại vĩnh viễn ngàn đời bằng lửa đạn… bạn nhầm lẫn, trên thân người chiến sĩ quốc gia, mà tôi chính là kẻ gây lên tai nạn đó. Lòng tôi đau buốt nghẹn ngào, tôi tới nắm bàn tay xương xẩu lạnh, hình như hơi ấm từ tay tôi chuyền qua làm ông Tư từ từ mở mắt nhìn tôi cố gắng mỉm cười trên vành môi tái xanh khô héo của người mới trở về từ cõi chết. Tôi nói:
– Bác sĩ vừa bảo với tôi ông Tư khỏe mạnh rồi đó ráng tịnh dưỡng đừng lo lắng gì hết có hại cho sức khỏe. Chừng tháng sau ông Tư sẽ được trở lại đời sống bình thường.
Tay ông Tư Râu bóp nhẹ tay tôi và gục gặc đầu như thầm hiểu những lời căn dặn của tôi và vì có lẽ quá cảm xúc hai dòng nước mắt chảy dài xuống gò má khô cằn nhăn nheo của người dân vô tội qua quá nhiều đau khổ trong chiến tranh. Tôi tạm biệt ông Tư Râu và theo bác sĩ Newman trở lên văn phòng. Bác sĩ Newman cho tôi biết sớm lắm ngày mai ông Tư Râu sẽ được dời ra khỏi phòng hồi sinh. Khi đang mổ tới vết thương cuối cùng ở tay vì chất lân tinh đã thấm vào xương tủy nên phải cạo một ít xương ra cho sạch chỗ bị nhiễm lân tinh. Có lẽ vì yếu sức ông Tư Râu bị bất tỉnh nhưng tim vẫn đập đều và máu bơm vào đầu bình thường làm cho óc vẫn hoạt động. Tôi nói chân thành cảm tạ bác sĩ Newman và các nhân viên bệnh viện đã lo giúp đỡ và chăm sóc ông Tư Râu. Tôi kiếu từ bác sĩ Newman ra về lòng khoan khoái nhẹ nhõm như người vừa trút được gánh nặng ngàn cân trên đôi vai trách nhiệm nặng nề về sự chết sống của ông Tư Râu.

Tôi thấy lòng sảng khoái hân hoan đến làm việc với anh em ở các phần sở Hàng Không Việt Nam trên Tân Sân Nhứt. Vào đến phòng họp còn năm phút trước mười một giờ, các anh em đại diện các phần sở nhân viên trên bốn trăm người trong phòng chật cứng. Ông Lâm Ngọc Diệp, Phó giám đốc nhân viên phi hành và không phi hành. Ông Việt Phó giám đốc kỹ thuật và ông… Phó giám đốc tài chánh đưa tôi vào bàn chủ tọa, sau ba hồi chuông reo vang tất cả hội trường đều an tọa, ông phó giám đốc Diệp đứng lên điều khiển đọc chương trình buổi họp hôm nay. Bắt đầu trước giới thiệu quan khách chủ tọa đoàn và các đại diện các phần sở liên hệ trước xin các quý vị sau đó rồi sẽ vổ tay, sau đọc chương trình buổi họp về lương tháng mười ba, có bốn mươi lăm phút để thảo luận và mười lăm phút ý kiến của ban giám đốc Hàng Không Việt Nam mà ông Phụ Tá Chủ tịch Nguyễn Hồng Tuyền đại diện Chủ tịch Tổng Giám Ðốc HKVN ông Phạm Long Sửu. Sau khi ông Lâm Ngọc Diệp giới thiệu quan khách, các phần sở liên hệ xong một tràng pháo vổ tay chấm dứt. Ông tuyên bố khai mạc và xin ông Phụ tá có đôi lời với tất cả các nhân viên và mời cô Vương Thúy Lan phó trưởng phòng tố tụng làm thơ ký buổi họp.
– Chúng tôi hôm nay lên đây trước để chuyển lời Chủ tịch Tổng giám đốc HKVN ông Phạm Long Sửu vì hôm nay ông có dự buổi họp cùng bên Bộ Giao thông Vân tải để bàn về việc bành trướng thêm các đường bay hải ngoại. Trước chào mừng tất cả quí vị và sau để cùng quí vị bàn luận về vấn đề lương tháng mười ba cho toàn thể nhân viên HKVN của niên lịch 1965 nầy. Chúng tôi trên ban giám đốc đã quan tâm đến việc làm tích cực của tất cả nhân viên trong ba tháng vừa qua và xin quí vị nghe lời báo cáo của ông… Phó giám đốc tài chánh thông báo cho quí vị biết rõ tình hình tài chánh của công ty, tôi xin giới thiệu ông Trình.

– Xin thông báo cùng quí vị, tình hình thu nhập tài chánh công ty rất khả quan, trong ba tháng vừa qua rất khích lệ tổng số thu gia tăng thêm 7% trên số thu dự định và nếu chúng ta tiếp tục như sự tiến triển trong ba tháng vừa qua cho tròn năm nay, thì tháng tưởng thưởng mười ba của tất cả các nhân viên không thành vấn đề. Ông phó giám đốc tài chánh dứt lời… tiếng vổ tay hoan hô vang dậy.

– Như vậy chúng ta chắc ai cũng đồng ý về lời trình bày về tháng mười ba của ông Phó giám đốc tài chánh, để rút ngắn thời giờ cho buổi họp hôm nay, chúng tôi có câu hỏi sau đây:
– Có ai không đồng ý nhận lãnh tháng mười ba xin đưa tay lên cho biết ý kiến.


Tất cả hội trường đều im lặng với nỗi lòng thoải mái và hân hoan vì chắc được tháng mười ba, chỉ có một người đứng lên… có tiếng ồn ào phản đối của tất cả hội trường… (có tiếng ai nói… Không muốn lãnh hả… để tui lãnh giùm cho… ngồi xuống đi cha nội ơi!!! Không lãnh hả để tụi tui lãnh đầu năm đánh xập xám cho vui nhà vui cửa…) Tiếng hội trường cười rộ lên làm vui nhộn cho buổi họp hôm nay. Ông Phó giám đốc Lâm Ngọc Diệp yêu cầu tất cả giữ im lặng để tiếp tục buổi họp, và xin người vừa đứng lên tự giới thiệu và phát biểu.
 Tôi tên là Henri Hoạt, trưởng ban đại diện công nhân công ty HKVN xin có ý kiến, nếu chủ tọa đoàn chấp thuận, anh xin tiếp tục. Ông Lâm Ngọc Diệp nhìn tôi như hỏi ý kiến, tôi gật đầu. Ông Diệp nói chấp thuận. Anh Henri Hoạt nói, nếu được lãnh tháng mười ba thì ban giám đốc cho chúng tôi lãnh ra sao? chia ra hai phần một phần lãnh trước kèm theo với tháng mười một và một phần lãnh kèm theo với tháng mười hai hay là lãnh trọn luôn trong tháng mười hai? Lại có tiếng ai đó nói lớn lên… có được lãnh tháng mười ba là đã sướng quá rồi, trước sau gì cũng lãnh lo lắng chi cho mệt… Bỏ qua đi tám!!!..)

 Ý kiến nầy phải hỏi lại ông Phó tài chánh mới được.
– Ðể tiện việc số sách cuối năm, tôi xin đề nghị ban giám đốc cho lãnh tháng mười ba tưởng thưởng cùng với tháng mười hai cuối năm thì rất dễ dàng tiện việc sổ sách cho văn phòng tài chánh, tiếng hoan hô ầm lên cả hội trường.

 Vậy để tiết kiệm thời giờ để các anh em còn trở lại làm việc, chúng tôi xin chuyển lời ông Chủ tịch Tổng giám đốc về quyết định của hội đồng quản trị, (hội trường im thin thít chờ nghe…) theo lời đề nghị của ông Chủ tịch tháng tưởng thưởng mười ba… đã được chấp thuận, tiếng hoan hô và tiếng cười rộn rã ầm vang cả hội trường. Còn hơn nửa giờ chúng tôi xin cho quí vị biết sơ qua các chương trình dự định năm năm bành trướng 1965/1970 công ty HKVN trong tương lai, nội địa thêm các tuyến đường bay Sài Gòn, Rạch Giá, Hà Tiên, Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Phan Thiết, Phan Rang, Tuy Hòa, Qui Nhơn, Quảng Ngãi… Các tuyến đường bay hải ngoại hướng Ðông Bắc, tuyến đường bay nối dài qua từ Hồng Kông 1965/66 đến Seoul Nam Hàn và Tokyo Nhật Bổn, về phía Ðông Nam tuyến đường bay thẳng qua Sidney Úc Châu. Về phía Tây Nam nối tiếp tuyến đường bay từ Thái Lan đi đến Indonesia và Birmani trong năm 1966/67.
Ðể tăng cường về phi cơ sẽ mướn thêm cho nội địa của các hãng hàng không bạn như China Air Lines và Far Eastern của Ðài Loan. Mướn/Mua thêm Boeing 727 cho các tuyến đường bay hải ngoại và cùng hùn/chia vớí CAS (Continental Air Servises) 1965/1972 thay thế Air America, chỉ bay riêng cho các cơ quan hành chánh và tòa đại sứ Mỹ. HKVN lo sửa chữa và bảo trì các phi cơ. Vào cuối năm 1966/67, tăng cường mở đường bay Âu châu qua Pháp. Chuẩn bị nối liền Tokyo qua Mỹ San Francisco và Los Angeles nếu tình hình cho phép, chương trình liên lạc PanAm để mướn/mua 6 phi cơ 707/320 vừa chở hành khách và hành lý. Vào năm 1968 sẽ có hai chương trình:

1) – Là thành lập thêm công ty Hàng Không Chuyên Chở có tên VAT (Việtnamese Air Transport).
2) – Hùng vốn với Hilton Hotel xây cất một Hotel năm sao, sáu từng chừng hai ngàn phòng. Từng một với đầy đủ khu buôn bán lẻ, nhà hàng và bộ chỉ huy HKVN, trên miếng đất mà hiện tại Bộ Giao Thông Vận tải đang chiếm giữ. Bộ sẽ dời đi nơi khác vì nơi đây quá nhỏ cho sự bành trướng của Bộ Giao thông Vận tải trong tương lai.

Ðó là chương trình bành trướng công ty HKVN trong tương lai, sau cùng xin kính chúc quí vị có nhiều sức khỏe và cố gắng thêm lên trong công việc hằng ngày và giữ vửng lòng tin vì sự thành công của công ty HKVN nằm trong tay quí vị. Sau đây nhờ cô Vương Thúy Lan thơ ký buổi họp đọc laị biên bản, xin quí vị Phó giám đốc ký tên vào và chuyển về phòng hành chánh công ty HKVN để trình lên Ông Chủ Tịch Tổng Giám Đốc.
Buổi họp chấm dứt trong sự vui vẻ của tất cả đại diện cho các nhân viên phần sở. Khi ra về lòng được nhiều phấn khởi vì tháng mười ba tưởng thưởng đã thành sự thật không còn thắc mắc lo âu bàn cãi nữa trong giờ làm việc của các cơ quan liên hệ. Buổi họp được bế mạc trong niềm phấn khơỉ của tất cả nhân viên HKVN.
Trên đường trở về văn phòng, lòng tôi khoan khoái chi lạ, công tác cho hãng đã được kết quả mỹ mãn và việc ông Tư Râu hồi tỉnh lại đem đến cho tôi niềm vui nội tâm yên ổn thoải mái cho tình người phi công khu trục. Sau khi thông báo kết quả buổi họp cho Trương Ðăng Lượng chánh văn phòng, ông chủ tịch còn đang họp với Bộ Công chánh về việc xin Bộ Ngoại giao giới thiệu công ty HKVN đến các nước liên hệ để được mở thêm các tuyến đường hàng không trong tương lai.

Chiều nay về đến nhà cùng Thiên Nga, Hải Tímunchô và Nhỏ yêu của tôi đi ăn mì Cây Nhãn, chưa bao giờ tôi được sống hai ngày cuối tuần hạnh phúc tròn vẹn cùng gia đình nhỏ bé của chúng tôi.
Sau hai tuần công tác để mở thêm đường bay quốc tế ở Ðài Loan và Seoul Nam Hàn trở về trình bày cho ông chủ tịch công tác về việc bành trướng các đường bay được theo ý muốn. Chỉ chờ ngày ông Chủ tịch đi thăm viếng xã giao Ðài Loan, Nam Hàn và ký giấy tờ là xong. Anh tổng thư ký Trương Ðăng Lượng cho biết có điện thoại của văn phòng Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ gọi, và cho biết tình trạng sức khỏe của ông Tư rất khả quan. Ngày hôm sau trước khi lên thăm ông Tư, tôi ghé qua tiệm chú Khén mua tô hủ tiếu khô có nước lèo để riêng, và lại chỗ bánh mì Ba Lẹ mua hai ổ đem lên cho ông Tư. Đến Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ, tôi ghé vào văn phòng của Y sĩ trưởng gặp ngay bác sĩ Newman chào đón tôi và cho biết chừng một tuần lễ nữa để vá thêm bốn vết thương ở tay trái là xong, chờ lành thêm thời gian không hơn hai tuần nữa ông Tư có thể xuất viện.

Tôi theo chân bác sĩ Newman xuống thăm ông Tư nơi phòng nằm dưỗng bịnh chung với các binh sĩ Hoa Kỳ. Vừa trông thấy tôi, ông Tư ngồi dậy mừng rỡ và chảy nước mắt, vì có lẽ sợ tôi bỏ bê ông ta vì thấy hai tuần vừa qua tôi vắng mặt. Tôi ngồi xuống an ủi ông Tư, vì tôi bận công tác hải ngoại hai tuần, mới vừa về hôm qua nay lên thăm liền ông Tư đây. Tôi có mua cho ông Tư một quần Jeans và cái áo tay ngắn kiểu Hạ Uy Di, có thêm tô hủ tiếu và bánh mì thịt nguội Ba Lẹ nữa cho Ông Tư đây. Tôi biết chắc mấy tuần ở đây ăn cơm Mỹ ngán lắm rồi phải không. Ông Tư bước xuống giường theo tôi ra phòng dành cho thân nhân thăm viếng, chân, tay, lưng còn băng bó lổn ngổn nhưng gương mặt ông Tư có thần và hình như sức khỏe đã trở lại khả quan. Ông Tư ngồi xuống bàn và xin phép cho ăn hủ tiếu. Vừa ăn ngon lành tô hủ tiếu và ổ bánh mì Ba Lẹ, vừa nhìn tôi với đôi mắt thầm cảm ơn, ông Tư dùng xong tôi mới lời hỏi chuyện:
– Ông Tư thấy sức khỏe ra sao, và các vết thương còn nóng và đau nhức như hồi xưa không?
– Dạ hết nóng rồi, sức khỏe khá tốt hết còn nhức nhối khi trời nóng hay lạnh, ăn ngủ được ngon giấc, không còn thức giấc ban đêm vì các vết thương hết hành hạ rồi.

Ông Tư cho tôi coi ở đùi và ống chân các chỗ lấy da để ‘’vá’’ các vết thương trên lưng và tay cũng đã bắt đầu kéo da non. Nghe ông Tư nói lòng tôi thấy yên vui, nỗi đau buồn đã vơi bớt được phần nào trong tâm não, thầm cám ơn Trời, Phật, Chúa đã ban ơn cho ông Tư được thoát khỏi sự chết từ từ âm thầm đến trong những phút sống cuối đời phiêu bạt. Tôi từ biệt ông Tư ra về, ông Tư cám ơn các món đồ tôi mua cho và mong gặp lại tôi trong tuần tới. Trên đường về lòng tôi rối vò trăm mối, làm sao đây chỉ còn ba tuần nữa thôi. Khi Ông Tư rời bịnh viện, rồi về đâu, không lẽ tôi lại trả ông về cuộc đời hành khất nữa sao. Rày đây mai đó sống nhờ các tha nhân thương hại cho từng đồng bạc, hay vài chục xu. Ngày dựa cột đèn dơ tay xin chút tình thương của đồng loại, đêm về sống dưới gầm cầu mưa gió lạnh lùng cô đơn cho kiếp đời lang bạt. Không biết ông có dự định muốn trở về Mé Láng nữa không, nơi một lần chiến tranh đã phá nát gia cang, vợ con bị chết cháy thê thảm? Tôi phải tìm một ngõ đường sáng sủa hơn để ông Tư làm lại cuộc đời dang dở, mới thỏa lòng ân hận và đau xót của tình người phi công khu trục. Làm sao cho cuộc đời ông Tư Râu được bình thường trong tương lai, vì kiếp người như ông Tư chịu quá nhiều tai ương hoạn nạn tàn phá.
Mỗi tuần tôi đều có lên thăm ông Tư, tình trạng sức khỏe rất khả quan, đi đứng vững vàng, đã làm giúp bịnh viện trong các công tác như đem nước uống hay cà phê cho các thương binh Hoa kỳ, đốt thuốc lá, quét phòng… Tuần lễ thứ ba tôi được thông báo cuối tuần vào ngày thừ sáu ông Tư sẽ được cho xuất viện. Ngày thứ hai vào làm việc tôi bàn cùng ông Hai, người lo chăm sóc văn phòng, để tìm chỗ ở cho ông Tư Râu, và công việc thì sẵn Air Việt Nam đang trên đà bành trướng, việc cho ông Tư một chỗ làm chắc không khó. Làm nhân công khuân vác hành lý hoặc làm trong nhà nấu thức ăn cho các chuyến bay hải ngoại, hay nhân viên chăm sóc vệ sinh văn phòng. Ông Hai đưa ý kiến để giúp cho ông Tư, cho ở không tiền thuê cùng nhà ông Hai mướn trong ba tháng đầu, và sau đó chia 2 phần 5 tiền mướn. Tôi đưa tiền ông Hai đi chợ trời mua một cái vali cỡ trung và mua bốn bộ quần áo, khăn lông, một ghế bố và cái mùng chiến trận cho ôngTư Râu. Tuần lễ qua mau thứ sáu đến, tôi ghé nhà hàng Thanh Thế mua bốn chục tôm chiên lăn bột, bốn chục gỏi cuốn, bốn chục chả giò và sáu chai rượu chát: ba chai đỏ Cabernet Savignon và ba chai Chablis trắng, đem lên làm quà cho các bác sĩ và nhân viên của Bệnh Viện Dã Chiến 3 Hoa Kỳ. Tôi lên đến vào khoảng mười hai giờ cũng vừa bữa cơm trưa, tôi vào phòng làm việc của bác sĩ Newman nhờ cô thơ ký cho người tiếp tay tôi bưng những hộp đồ ăn vào, cũng vừa khi bác sĩ Newman vừa trở về phòng có dẫn theo ông Tư Râu. Trong bộ quần Jeans áo sơmi xanh nhạt cụt tay, mặt mày có da có thịt lanh lẹ tỏ ra người đã được chữa trị lành hết các vết thương của chiến tranh.
Không ai có thể nhìn ra ông Tư Râu hành khất ngày xưa, hôm nay là người thanh niên trai trẻ đầy sức sống. Tôi cũng vui lây. Ông bác sĩ Newman cũng lấy làm sung sướng đã chữa lành người bệnh nhân có căn bệnh khó tánh mà đây cũng là một trong những người đầu tiên ông ra tay cứu độ. Ông bảo cho tôi biết dù ông Tư Râu có vẻ khỏe mạnh nhưng chưa biết kết quả thực thụ trường kỳ trong tương lai ra sao. Còn phải theo dõi bệnh nhân và sau một tháng phải bảo ông Tư Râu trở lại khám bệnh. Tay chân còn yếu đừng cho làm việc gì nặng nhọc hoặc bưng sức nặng trên mười ký lô, đừng nên uống rượu nhiều có thể làm sưng hoặc ung thối những miếng da thịt vá các vết thương. Ông Tư Râu phụ bưng các món ăn qua phòng ăn của các nhân viên bệnh viện, bày ra trên bàn và khui rượu ra. Tôi mời bác sĩ Newman cùng tất cả các các bác sĩ chuyên khoa mổ xẻ và y tá nhân viên cùng nâng ly trước để nói lên sự biết ơn của ông Tư Râu và tôi, sau mừng người nạn nhân của chiến tranh mà bác sĩ Newman cùng tất cả quý vị có mặt hôm nay đã ra tay cứu độ được thành công tốt đẹp. Ông bác sĩ Newman cùng tất cả các nhân viên bệnh viện đồng chúc ông Tư Râu nhiều may mắn. Buổi tiệc bắt đầu, các món ăn chả giò, gỏi cuốn và tôm lăn bột chiên cùng rượu chát đỏ Cabernet Savignon được tất cả người bạn đồng minh rất khoái khẩu và hoan hô. Chúng tôi từ biệt ra về ông Tư Râu bắt tay từ giã các người bạn chân tình đã giúp chỉnh trang lại mảnh đời vô vọng thành một cuộc đời đầy tương lai và có ý nghĩa sống cho ông Tư Râu. Trên đường về văn phòng của tôi, ông Tư Râu nói cám ơn tôi với dòng lệ và sự lo lắng.

Không biết tôi chở ông về văn phòng làm gì đây, viển ảnh hành khất đen tối đang ám ảnh tâm tư. Ông khóc thành tiếng, cây cột đèn trước cửa HKVN quen thuộc hằng ngày, mái hiên chợ Bến Thành những trưa hè nắng cháy da, hay gầm cầu chữ Y trong những đêm cô độc lạnh buốt xương nằm nhìn đếm trăng sao… Tôi chia sẻ cùng ông và muốn ông Tư Râu nhờ dòng lệ tuôn ra cho hết tất cả tâm tư thầm kín đau khổ của mảnh đời vô vọng hành khất ngày qua để không còn đọng lại trong tiềm thức dù rằng chỉ một mảnh nhỏ bụi khổ đau của ngày qua… Ðể ông Tư Râu sống trọn đầy nghị lực mà ông đang phải bươn bả nhào vô chấp nhận đương đầu với cuộc sống mới trong tương lai…
Xe cũng vừa đến, thấy ông Hai đang quét dọn hàng ba trước cửa hãng Hàng Không Việt Nam. Ông Hai theo chân tôi và ông Tư Râu lên văn phòng, hai người rối rít hỏi thăm nhau, vào đến phòng khách ông Tư Râu đã thấy balô của ông đã có sẵn đó và cái vali nằm kế bên cùng ghế bố và chiếc mùng quân đội mà ông đã quen thuộc. Ông tư Râu hết nhìn tôi rồi đến ông Hai như tìm hiểu việc gì xảy ra đây cho cuộc đời ông trong tương lai? Thấy ông Hai và tôi cười vui, ông Tư Râu cũng cười với những giọt nước mắt lưng tròng và sự lo lắng thấm kín.
– Ngồi xuống ghế đi ông Tư Râu, ông xem lại balô coi còn đủ đồ như trước khi ông đi chữa bệnh không?

Ông Tư Râu nói một câu đầy ân nghĩa:
– Thưa ông Phó và ông Hai, tôi không xem lại và tôi chắc chắn đồ của tôi còn đủ và có thêm một tình thương vô bờ bến mà ông Phó và ông Hai dành cho tôi trong những ngày qua, lúc tôi được chữa bệnh.
Với cử chỉ lanh lẹ ông Tư Râu móc túi lấy cái bóp ra, lấy hai ngàn hai trăm đồng trả lại cho tôi.
– Ông Tư Râu ơi, giữ đó đi hôm nào về xây mồ mả cho vợ con. Ðây ông Tư Râu nghe kỹ, những gì tôi dư định cho cuộc sống trong tương lai, nếu ông Tư Râu thấy không vừa lòng thì cho tôi biết để tôi lo liệu sau. Bây gìờ về phần chỗ ở, ông Hai cho ông Tư Râu về ở chung trong ba tháng đầu không lấy tiền sau đó rồi sẽ tính sau. Công việc làm tôi đã lo xong rồi, cho ông Tư Râu vào làm với hãng Hàng Không Việt Nam trong nghề phụ bếp ở Tân Sơn Nhứt. Nhà ông Hai cũng ở gần đó, đi làm rất tiện lợi, như vậy ông Tư cho biết ý kiến ra sao?

Vừa nghe tới đó ông Tư Râu oà lên tiếng khóc trong sung sướng và nói:
– Tôi không biết nói gì hơn ngoài hai tiếng cám ơn từ đáy con tim. Những gì ông Phó và ông Hai đã chỉ bảo, tôi xin nhận với tất cả lòng hân hoan thành thật và sự vui mừng ngoài sự tưởng tượng của đời tôi.
Ông Hai mở vali ra, chỉ tất cả quần áo đồ dùng trong đó là của ông Tư Râu, cả mùng mền và chiếc ghế bố nữa đó. Tôi bảo ông Hai dẫn ông Tư Râu xuống văn phòng ông Chỉnh chánh sở nhân viên làm giấy tờ vào làm HKVN. Ngày mai, ông Hai chở giúp ông Tư Râu lên trình diện phần sở sản xuất phần cơm cho các phi vụ đường xa và ngoại quốc ở Tân Sơn Nhứt để bắt đầu cuộc sống mới.
Năm giờ chiều, văn phòng đóng cửa nhân viên ra về, tôi vừa xuống cửa cầu thang, nhìn thấy ông Chỉnh chở trên xe giúp ông Tư Râu chiếc vali, ghế bố và mùng. Còn ông Hai chở ông Tư Râu trên xe Mobilette trực chỉ hướng về Trương Minh Giảng, nhà ông Chỉnh và ông Hai gần bên nhau. Trên đường về với vợ con tôi cảm thấy lòng khoan khoái vô ngần, vì sự đau khổ thầm kín của đời người phi công khu trục được giải tỏa một phần nào. Khi nhìn hình ảnh ông Tư Râu ngày hôm nay đi đứng bình thường, sức khoẻ khả quan không còn dấu vết của ông già hành khất khổ đau vì bệnh tật, khập khểnh lê từng bước chân đi lần vào con đường cuối nhỏ hẹp của định mệnh quá khắt khe dành cho ông Tư Râu.
Tháng sau tôi chở ông Tư Râu đi khám bệnh lại và được bác sĩ Newman cho biết tình trang sức khỏe ông Tư Râu rất khả quan nhưng về sau coi chừng nhắc nhở ông để ý cánh tay phải vì vết thương ăn sâu nên coi chừng bị mục xương. Chiều đó về tôi được ông Chỉnh báo cho biết, giấy cảnh sát đòi ông Tư Râu ngày mai trình diện tại bót đô thành đường Trần Hưng Ðạo về vấn đề vì trùng tên sao đó và khai không đúng lý lịch là vợ chết, trong việc kiểm tra an ninh cho nhân viên vào làm ở Hàng Không Việt Nam. Sau khi đi trình diện cảnh sát xong ông Chỉnh chở ông Tư Râu về văn phòng gặp tôi, báo cho tôi biết vì cảnh sát đã truy tầm ông Tư Râu trong gần một năm nay mà không tìm ra tung tích. Trong cuộc hành quân càn quét của quân đội VNCH vào mật khu VC ở tỉnh Trà Vinh quận Trà Cú có bắt được nhiều người trong đó có một ngươì đàn bà hiện đang nhốt ở khám tỉnh đường Trà Vinh chờ điều tra và kiểm chứng. Khai tên Ðào Thị Nở là vợ của ông Châu Văn Tư làm xã trưởng Mé Láng bị việt cộng bắt lùa đi để dùng làm chị nấu ăn (chị nuôi) sau cuộc tấn công vào Mé Láng tháng giêng năm 1962. Ông Tư Râu đã chứng minh được mình là xã trưởng ở làng Mé Láng nhờ tờ giấy chứng nhận của ông cựu quận trưởng và thẻ kiểm tra mà ông Tư Râu còn cất giữ. Nên cảnh sát cho hai tuần lễ gia hạn để ông Tư Râu trở về Trà Vinh gặp người đàn bà khai là vợ, để kiểm chứng có đúng sự thật hay không? Sau lời trình bày của ông Chỉnh tôi nhìn thấy trên mặt ông Tư Râu nửa mừng nửa lo, mừng vì nghe tin người vợ còn sống, lo là không biết tụi VC lưu manh có lấy giấy tờ thẻ kiểm tra của vợ là Ðào Thị Nở ghép vào cho cán bộ của chúng nó để qua mắt nhà cầm quyền VNCH hay không? Tôi bảo ông Chỉnh làm giấy phép cho ông Tư Râu mười lăm ngày nghỉ để về lo việc gia đình.
Sau một tuần lễ ông Tư Râu trở lên Sài Gòn có dẫn theo một người đàn bà cỡ độ bốn mươi. Khi mới nhìn tưởng đâu cũng trên sáu mươi tuổi, có lẽ vì thiếu dinh dưỡng, tuy ốm yếu nhưng nhưng lanh lẹ, giới thiệu cùng tôi là vợ, và bà Tư cám ơn tôi:
 Nhờ Trời Phật phù hộ nên nhà tui đã gặp được ông Phó cứu giúp trong cảnh khốn cùng, được chữa lành bệnh và đi làm. Nếu không có… „chiện“ được đi làm… „diệc“ mà còn sống cuộc đời ăn mày thì tui chắc ở tù suốt đời vì chẳng bao giờ cảnh sát tìm ra tông tích được ông nhà tui đâu.
Tôi gọi ông Hai lên gặp bà Tư Râu, hôm nay có thêm khách ở nhà cho vui. Tôi cũng chúc cho ông bà Tư Râu được an vui và nhiều sức khoẻ. Ngày mai ông Tư Râu dẫn bà Tư đi đến cảnh sát để chứng mình đã lãnh vợ ra và điều chỉnh lý lịch trong tờ khai an ninh của hãng Hàng Không Việt Nam. Sau ba tháng ông bà Tư Râu chia sẻ tiền nhà cùng ông Hai và bà Tư được vào làm cùng sở với ông Tư Râu lo việc rửa các mâm và rau cải. Có lần tôi ghé thăm ông Hai và ông bà Tư Râu, thấy các ông đang nhậu bia Heineken và bà Tư Râu đang lo các món nhâm nhi. Thấy tôi bước vào, ông Hai khoe liền, từ ngày có ngườì em trai kết nghĩa và cô em gái ông Hai được an hưởng tình gia đình ấm cúng mà từ lâu nay ông đã mất đi sau khi vợ ông qua đời ở làng Ba Xe quận Long Tuyền Cần Thơ, trong một đêm Tây ruồng bố vào năm 1945. Ông Hai bỏ làng ra đi từ đó. Như trong gia đình bà Tư Râu lo cơm nước và rửa chén bát vệ sinh trong nhà.
Từ cuối năm 1967 tôi rời Air Việt Nam trở về Không Quân ra Nha Trang ở Căn cứ Huấn Luyện KQ rồi về vùng Bốn làm chỉ huy trưởng Căn Cứ KQ Sóc Trăng. Sau đó, 1971 trở lại vùng Hai làm chỉ huy trưởng Căn Cứ 60 Chiến Thuật KQ Phù Cát Bình Ðịnh cho đến ngày rời bỏ VN mến yêu ngày 30 tháng tư năm 1975. Khi ngồi viết lại những dòng chữ nầy tôi xin nhắn cùng ông Tư Râu về việc chính tôi là người phi công khu trục vô tình đã thả trái bom lân tinh gây nên những vết thương muôn đời trên thân thể ông Tư Râu mà ngày xưa tôi không đủ can đảm thú nhận chuyện đau lòng đó cùng ông. Ðến năm nay ông Tư Râu cũng đã chín mươi tuổi nếu còn sống trên cõi đời nầy hay đã hoá ra người thiên cổ rồi xin ông Tư Râu nhận nơi đây những lời chân thành tạ tội của một người phi công khu trục.
Có một lần vào năm 2006, khi đi dự đêm hội ngộ HKVN ở Westminster, Los Angeles có người bạn thuật cho tôi nghe một chuyện sau ngày mất nước ở HKVN. Trong buổi họp các nhân viên HKVN để cán ngố tuyên truyền, sau khi dứt lời một cán ngố bảo: Cách mạng đã về, thành công trong công việc giải phóng quê hương dưới sự kìm kẹp của Mỹ Ngụy. Các đồng bào hãy hồ hởi phấn khởi lên làm việc gấp trăm lần hơn Mỹ Ngụy để bảo vệ nền dân chủ tự do thành công của cách mạng. Có ai có ý kiến gì không?

Trong phòng im lặng không có ai lên tiếng trả lời, cán ngố liền chỉ bà Tư Râu, cụ bà phát biểu đi chứ! Bà Tư đứng dậy chậm rãi nói: „Nhờ Trời Phật Thánh Thần Thiên Ðịa phù hộ, hoan hô Cách mạng thành công… dìa thành… làm ơn ’’diệt’’ luôn tụi….’’diệt cộng’’… đừng để chúng nó pháo kích lung tung… „diết“… chết dân lành vô tội…“

 
 Thiên Phong

Copy from HQPD
 

Vuong Nguyen <vuongcnguyen532@gmail.com>
To:AHKQVNCH-MTC,kqvn,Gauden 532,HAHKQ-BCH
Thu, Nov 4 at 1:35 PM
Hello Gia đình Gấu Đen PD532  cùng các chiến hữu xa gần
Được tin anh Năm, từ Lâm Simon: Người lính già Phù Cát đã cất cánh bay cao tối qua.
Xin cầu nguyện cho anh Năm
Được tin buồn
Đại Tá Không Quân Nguyễn Hồng Tuyền
Nguyên Chỉ Huy Trưởng CC60CT/KQ Phù Cát
Đã tạ thế ngày 3 tháng 11 năm 2021
Tại Pleasanton, California, USA
 
Hưởng thọ 88 tuổi
 
Chân thành chia buồn cùng tang quyến
Nguyện cầu Hương linh Đại Lão Trượng KQ Nguyễn Hồng Tuyền sớm về Miền Vĩnh Cửu
Gia Đình Kỹ Thuật Tiếp Vận & Bô lão KQ VNCH
 
ĐỒNG THÀNH KÍNH PHÂN ƯU 
 

'Quynh D' via kqvn <kqvn@googlegroups.com>
To:phil nhu
Cc: Không quân trung Cali, KQVN, Tuyen Nguyen Hong,Kim Ngo,duong pham hưu
Thu, Nov 4 at 1:35 PM
Ông Thầy còn là cựu Không Đoàn Trưởng Không Đoàn Yểm Cứ 84 CT - Sóc Trăng 
 


Hồi Ký của Đại Tá KQ Nguyễn Hồng Tuyền
Trong buổi tiệc tưng bừng náo nhiệt tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan Sư Đoàn IV Không Quân mừng chiến thắng Chương Thiện, do Đại Tá Nguyễn Huy Ánh, Tư Lệnh Sư Đoàn IV KQ tổ chức, vào khoảng tháng 10 năm 1971.
Tôi tưởng tôi đang ngồi riêng một mình, vì đang nhớ tới Thúy Nga và các con, nhất là cô năm Thiên Hương, đứa con út sắp được đầy tháng. Mặc dù quanh tôi là hàng trăm Chiến hữu hào hứng kể lại những giao tranh vừa xẩy ra, và chỉ cách tôi vài thước là Đại tá Nguyễn huy Ánh, tư Lệnh Sư Đoàn IV KQ.
Thấy tôi ngồi đực mặt ra, anh gọi, rồi hỏi tôi:
- Sao không ăn uống gì mà ngồi như trời trồng vậy?
Bàng hoàng, tôi trở lại với bàn tiệc, dưới sự chủ tọa của Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân Trần văn Minh. Có sự hiện diện của Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Đoàn IV (sau này thăng cấp Trung tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I Quân khu I ), và Đại Tá Trần công Liễu, Tư lệnh Biệt động Quân vùng IV, Thiếu Tá Lương văn Ngọ đẹp trai tùy viên.
Có mặt Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn, người hùng đã phối hợp với Không Quân, đẩy lui cuộc tấn công vũ bão của một Trung đoàn chính quy Việt Cộng vào tỉnh Chương Thiện.
Trên khuôn mặt Trung Tá Cẩn tỏ vẻ vui tươi cùng anh em, nhưng nét lo âu vẫn còn tiềm ẩn trong ánh mắt. Tham dự nhiều cuộc hành quân dưới quyền điều động của Thiếu Tướng Trưởng, nhưng tối nay tôi chợt nhận ra nét khắc khổ trên mặt Thiếu Tướng Trưởng dường như đậm nét hơn, tôi suy nghiệm nét khắc khổ của ông với niềm lo âu trên mặt anh Cẩn, rồi thoáng nhận diện được tâm sự lo ra của Đại Tá Ánh và tôi, chúng tôi và hai chiến sĩ Bộ Binh này, không nghĩ “Chiến thắng” chúng tôi đang ăn mừng đã là Chiến thắng, mặc dù chúng tôi tiêu diệt trên 300 địch quân, tịch thâu cũng ngần đó vũ khí của họ.
Với gần 50 Phi vụ, chúng tôi cũng chỉ bảo vệ được Chương Thiện, con số hàng trăm địch quân bị bắn gục ngay trong hàng rào kẽm gai, cho thấy là chúng tôi chỉ đoạt “Chiến thắng” trong gang tấc!
Mặc dù Trung Tá Cẩn rất bình tĩnh trong việc điều khiển hỏa lực Không Yểm đánh Bom và Xạ Kích cách công sự phòng thủ của lực lượng đồn trú chỉ hai mươi thước! Những mảnh Bom và Hỏa tiễn còn ghim đầy trên các công sự phòng thủ.
Tôi đoán hiểu nỗi lo của Tướng Trưởng và anh Cẩn, là họ không muốn chỉ làm chủ tình tình bên trong rào kẽm gai, họ đang toan tính mở hành quân bung ra truy kích địch.
Sau bữa tiệc thịnh soạn thực đơn rất miền Tây, gồm có 04 món ăn chơi:
- Gỏi ngó sen tôm thẻ,
- Cua lột Bãi Sào chiên dòn Long Phụng,
- Chim Óc Cao Chằng Nghịch Rô ti nước dừa,
- Rùa Bang Thạch rang muối.
6 món cơm chánh:
- Canh chua Cá Lóc Ô Môn.
- Cá rô Trà Nóc kho tộ.
- Tôm càng xanh Cầu Kè rang me.
- Vịt rút xương xào nấm Đông cô.
- Lươn Long Tuyền um xả dừa khô.
- Bò con Bảy Núi nướng Lá Cách.
Thực Khách và Chủ được thỏa lòng với các món ăn đặc biệt mặn mà của Địa Phương Vùng IV Miền Tây Đô, Cần Thơ nước ngọt dân lành.
Đèn Câu Lạc Bộ bật sáng lên, để Trung Tướng Tư Lệnh KQ tiễn Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh Quân Đoàn IV và Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn ra về.
Chúng tôi tháp tùng cùng Đại Tá Nguyễn huy Ánh đưa Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV ra trực thăng, trước khi lên máy bay Thiếu Tướng Tư lệnh bảo:
- Ngày mai Ánh cho Tuyền ra gặp tôi ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn sớm, lúc7.30, vì 8.00 giờ tôi phải đi Chương Thiện cùng Trung Tá Cẩn.
- Tuân lệnh!
Ánh nói, rồi tôi và Ánh đưa tay chào Tướng Trưởng theo Quân cách, chúng tôi xoay qua bắt tay Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn và hứa sẽ “gặp” anh trong tuần tới ở Chương Thiện.
Khi bắt tay anh Cẩn, hẹn gặp lại anh tại Chương Thiện. “gặp nhau” chỉ là một cách nói của những người Lính Không Quân và Lục Quân, chúng tôi bay yểm trợ trên Không Trung, Cẩn chỉ huy hành quân dưới đất, có thể ngày nào cũng nói chuyện với nhau, dù không ai thấy mặt ai.
Đèn chớp tắt báo hiệu trên thân tàu Trực Thăng đẹp như những vì sao đêm.
Đèn pha an toàn được bật sáng lên như ánh hào quang hướng rọi trên đưòng di chuyển ra Phi đạo cất cánh.
Tiếng rú của cánh quạt thật dễ thương, con tàu từ từ rời mặt đất hướng về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn IV Cần Thơ.
Trong ánh hào quang của đèn pha thấy hàng ngàn con thiêu thân đã tan xác vì cánh quạt. Tôi chợt nghĩ cũng như Trực thăng bay đêm khi ánh đèn pha đã tắt, chỉ một sơ xuất thì không còn được toàn thây!
Chúng tôi theo chân Đại Tá Nguyễn huy Ánh trở lại Câu Lạc Bộ, ánh đèn màu đã bật lên, tinh cầu xoay khá mau như chuyển ngàn ánh sao băng muôn màu trên tà áo phất phới bay theo nhịp điệu Paso Doble trên sàn nhảy.
Những anh hùng bốn phương, cùng nhiều người đẹp miền Tây Đô và các em gái Hậu Phương của Trường Đoàn Thị Điểm tỉnh Phong Dinh đang quay mình theo nhịp điệu của tiếng nhạc, làm ấm lòng các Chiến sĩ, để quên đi những phút giá lạnh ngoài Biên Cương, những giờ phút cực kỳ nguy hiểm trên bàu Trời dày đặc lửa đạn.

Trên bàn danh dự, Trung tướng Tư Lệnh Không Quân Chủ tọa, bên tay trái Thiếu Tướng Young Cố vấn Không Quân, Đại Tá Trần công Liễu Biệt động Quân và Đại Tá Sawyer Cố vấn Trưởng Sư Đoàn IV KQ, Trung Tá Johnson Cố vấn Trưởng Căn cứ KQ Sóc Trăng.
Bên tay phải Đại Tá Nguyễn huy Ánh Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn IV , Đại tá Ba Khối nhân viên, Đại Tá Ngọc khối Huấn Luyện, Trung Tá Trần minh Thiện, Không đoàn Trưởng KQ 84 và Tôi, Chỉ huy Trưởng Căn cứ Sóc Trăng.
Hôm nay chỉ vắng bóng Đại Tá Ông Lợi Hồng, Tư lệnh Phó Sư Đoàn IV KQ đang dự khóa Tham Mưu Cao Cấp ở Hoa Kỳ.
Nhìn quanh các bàn khách, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều người đẹp Tây Đô, Hương và Diệu con của Chú Thiếm Phán Lê văn Thiện làm ở tòa Hành Chánh Cần Thơ.
Hương sau này lấy Trung Tá Võ ngọc Tước, Phi công Khu Trục Phi Đoàn 516 Phi Hổ.
Diệu kết duyên cùng Thiếu Tá Đoàn Hựu, Phi công Quan Sát.
Có Phương Lan người đẹp xứ Sóc Trăng dễ thương ngồi cùng bàn với Trung úy Thiệt què, trực thăng võ trang, và còn nhiều giai nhân của Trường Đoàn thị Điểm mà tôi không rõ tên.
Thiếu Tá Ngọ, Chánh văn Phòng của Đại Tá Trần công Liễu, Biệt động Quân, chung bàn với Trung Tá Nguyễn quang Ninh và Phu nhân, Trung Tá Nguyễn văn Trương, Trung Tá Phạm quang Điềm Phi đoàn Trưởng Phi Đoàn 520 Khu trục và Bà xã.
Chị Điềm được anh em gắn biệt danh Phi Hổ “Tím 3” ( vì chị Điềm luôn luôn… đeo sát anh Điềm Phi Hổ Tím 2, tôi là Phi Hổ Tím 1, khi còn cùng ở Phi Đoàn Khu Trục 516 Phi Hổ).
Trung Tá Điềm là một “Phi công Khu Trục Chi Bảo”, một hột kim cương trân quý của ngành Khu trục. Từ ngày ra nhập Không Quân, anh luôn luôn ở trong ngành Khu Trục, cho đến cuối tháng Tư 1975, ngày đen tối hận buồn của Miền Nam Việt Nam.
Anh đã bay qua các loại tàu bay từ cánh quạt: T28, AD6 cho đến Phản lực: A37, F5.
Anh đã vào sanh ra tử mấy ngàn lần trên các Chiến Trường của 4 Vùng Chiến Thuật, cùng những hiểm nguy trên vòm trời Bắc phạt.
Có sự hiện diện của Trung Tá Trần trọng Khương, người học trò tôi đã từng dạy ở khóa Trần duy Kỷ 1958, Sĩ quan Phi công đầu tiên tại Căn cứ Huấn Luyện Không Quân Nha Trang.
Có Thiếu Tá Nguyễn đức Gia, anh là Phi đoàn Trưởng và Thiếu Tá Bùi thanh Sử là Phi đoàn Phó Phi Đoàn 116 Quan Sát.
Rồi có Phi đoàn Trưởng các Phi Đoàn Trực Thăng, Thiếu Tá Trương thành Tâm, Thiếu Tá Châu “Cowboy”, Thiếu Tá Châu Rết, Thiếu Tá Nguyễn kim Hườn (sau này anh là một trong những nhân vật cao cấp đứng đầu trong Ban chấp Hành của Đảng Việt Tân tại Hải Ngoại).
Về Kỹ Thuật, có Trung Tá Nguyễn cao Nguyên và Trung Tá Ngô văn Kim.
Chiến Tranh Chính Trị Tham mưu Phó Trần như Huỳnh, một nhà văn cũng khá nổi tiếng Không Quân.
Chiến Tranh Chính Trị căn cứ Sóc Trăng, Thiếu Tá Đông... tà tà cùng Ban tham mưu Trung úy Be và Xe cũng có mặt.
Có Chánh sở An Ninh Không Quân Thiếu Tá Hồng văn Tý, Sư Đoàn IV KQ, Thiếu Tá Nguyễn tấn Thọ tự Charlie, cao thủ Vũ khí Đạn Dược hiện làm Liên Đoàn Trợ Lực.
Bên Trực thăng Võ trang có hai tay súng cừ khôi: Trung úy Nguyễn văn Ry và Trung úy Lê trí Thiệt tự Thiệt què.
Hai anh tuy nhỏ con nhưng quá gan lỳ khi bảo vệ Quân bạn lúc đụng độ với quân Việt Cộng, đặc biệt trong Chiến dịch vượt Biên diệt Địch tại Tà Nu Cambodia.
Anh Ry hiện đang sống cùng gia đình ở phía Đông Vịnh Oakland, Cali.
Anh Thiệt đang cư ngụ cùng vợ và các con tại thung lũng Hoa Vàng, San Jose CaLi.
Về Y Khoa, Không Quân Sư Đoàn IV có Thiếu Tá Nguyễn ngọc Châu, một Bác sĩ tài hoa, đày đủ khả năng chuyên môn, được từ Sư Đoàn Trưởng SĐ IV cùng toàn thể Quân Nhân, và Gia đình yêu mến.
Thân sinh ông là Bác sĩ Nguyễn văn Ngọc, đầy lòng Nhân từ, Bác ái, và cũng là một Nhân sĩ tiếng tăm của Tỉnh Cần Thơ.
Bác sĩ Ngọc đã cứu tôi thoát khỏi lưỡi hái tử thần hai lần.
Lúc năm tuổi tôi đi học về, trời mưa che dù đi tung tăng qua cây cầu bắt ngang con rạch vô nhà. Gió thổi mạnh sợ mất cây dù, ôm dù nhảy xuống sông, uống một bụng nước no nê, bất tỉnh nhân sự, chở vào Nhà Thương, được ông cứu sống.
Sau đó ông còn dặn:
- Trong Tương Lai, con có đi Không Quân nhảy dù xuống nước, nhớ đeo cái Phao!
Lần thứ hai, đi tản cư về, bị đau Ban, vừa ho và sốt rét cả tháng trời, không cơm cháo gì ráo, nằm bắt chuồn chuồn, khi chở vào Nhà Thương chỉ còn da với xương.
Trong tình trạng thập tử nhất sanh, cũng chính nhờ Bác Sĩ Nguyễn văn Ngọc cứu sống.
Tôi vẫn thường gọi ông là PaPa, người Cha nuôi đáng kính thứ hai của đời tôi.
Buổi tiệc mừng Chiến Thắng tàn, sau đó tôi không ngờ rằng là buổi tiệc Tình Bạn thâm giao cuối cùng của Nguyễn Huy Ánh và Tôi.

Đại Tá KQ Nguyễn Hồng Tuyền
 

No comments: