5- TPB - Huỳnh đình Lai SQ: 180526, NQ viên chi khu thăng bình, đi lục suốt
bị mìn 1972.
Địa chỉ:
Huỳnh Đình Lai
Tổ 1 Thôn Cổ Linh Xã Bình Nam, Thăng Bình
Quảng Nam Điện Thoại: 0333028433
Kingbee Đặng Quỳnh gửi $50.00 z
Hội KQ Houston và Vùng Phụ Cận $100.00 USD
Tổng cộng: $150.00 USD
6- TBB Tr/Sĩ TSQ Hắc Long NKT Đỗ Quang Hồng Đoàn 72,75 SCT/NKT
Đỗ Quang Hồng Hẻm 246 đường Nguyễn Tri Phương Khu phố Bình Đường 4 P. An Bình
Thành Phố Dĩ An Bình Dương
Sđt 090 272 4437
Hội KQ Houston và Vùng Phụ Cận $100.00 USD
7- TPB Lưu Minh
Thôn Phước Hòa Xã Đức Phú Mộ Đức Quảng Ngãi SDT: 0977.579.371
Kingbee Đặng Quỳnh gửi tặng $50.00 z
Hội KQ Houston và Vùng Phụ Cận $100.00
Tổng Cộng $150.00
Lưu Binh
From:congbinh1804@gmail.com
To:Pham Hoa
Tue, Oct 1 at 3:03 AM
Chú
Hoà ơi! Ba con đã nhận được $150.00 của Chú gửi rồi ạ. Ba con xin gửi lời
cảm ơn đến Hội Không Quân Houston / Vùng Phụ Cận và Bác Đặng Quỳnh. Con cảm ơn Chú đã quan tâm đến Ba con ạ. Con chúc Chú
cùng gia đình thật nhiều sức khỏe, bình an và hạnh phúc ạ.
Con của TPB Lưu Minh
8 - TPB Huỳnh Hòa 513C/26 khóm Bình Khánh 4. Phường Bình Khánh Tp: Long
Xuyên An Giang Đt: 0346771416
9 - TPB Nguyễn Bững. Thôn Trạch Thành Xã Ninh Quang Thị Xã Ninh Hòa, Tỉnh Khánh Hòa
ĐT: 0708.930.671
Đại Đội 91 Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù
10 - TPB Th/Úy Lê Văn Nam cụt 1 tay.
Thôn Đại Thiện 2, Hàm Hiệp, Hàm Thuận Bắc
Vợ Lưu Mỹ Phượng ĐT: 0975320175
TPB
Th/Úy Lê Văn Nam Số Quân: 73/129089 Đại Đội Phó Trinh Sát Sư Đoàn 22/BB
Học
Sinh Phan Bội Châu Phan Thiết 12A1-Niên khóa 71-72
Nhập
ngủ ngày 19.8.1972 tại Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngủ
Theo
học Khóa 7/72 SQTB / Đồng Đế Nha Trang D/S 359 Đại Đội 740 Tiểu Đoàn 5
SVSQ
Mãn
khóa ngày 05.08.1973 về Tiểu Khu Bình Định tháng 10 năm 1973
Đầu
năm 1974 phục vụ tại Trung Đoàn 42 SĐ22BB / Tr/Tá Nguyễn Hữu Thông Tr.Đoàn
Trưởng
Tháng
9- 1974 thăng cấp Thiếu Úy và giữ chức vụ Đại Đội Phó Đại Đội Trinh Sát
Bị
thương ngày 20 tháng 1 năm 1975 tại An Lão giáp Bồng Sơn Tây Bắc Bình Định do
mìn chống chiến xa của Cộng Sản gài và được đưa điều trị tại Quân Y Viện
Quy Nhơn / CHT Trung Tá Nguyễn Xuân Cẫm. Bác sĩ điều trị Trung Úy Nguyễn Công
Trứ, điều trị rất tận tâm nếu không phải tháo khớp thêm chân trái đến đầu gối.
Thương
Tật: Mù mắt trái, điếc tai trái và mất nữa cánh tay trái và miễng mìn đầy cơ
thể.
LES: Payout Notification
Dear HÒA PHẠM,
Your money transfer has been received by the beneficiary.
MTN: 3879339568
Date of Order: Sep 30, 2024
Beneficiary: NAM VĂN LÊ OR LƯU MỸ PHƯỢNG
Amount Sent: 100.00 Dollar
Amount Paid: 100.00 Dollar
Thank you for choosing LES!
Không lực Việt Nam Cộng hòa(tiếng Anh:Republic of Vietnam Air Force,RVNAF) là lực lượng không quân củaQuân lực Việt Nam Cộng hòa. Tiền thân là những phi cơ ném bom nhỏ và cũ do quân độiLiên hiệp Phápchuyển giao choQuân đội Quốc gia Việt Namsau khi rút khỏi Việt Nam, sau đó dần được bổ sung cải tiến bằng những phi cơ tối tân, hiện đại doHoa Kỳcung cấp, trở nên ngày càng mạnh mẽ về số lượng cùng hỏa lực trên không. Không quân đã đóng vai trò quan trọng trong việc yểm trợ Bộ binhViệt Nam Cộng hòatrên mặt đất.
Vào năm 1972, Không lực Việt Nam Cộng hòa là lực lượng không quân lớn thứ 6 trên thế giới về số lượng máy bay, chỉ sau Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc, Pháp vàTây Đức.[3]
Lúc cao điểm Không lực Việt Nam Cộng hòa có tới trên 2.300 máy bay và trực thăng các loại, tức là còn nhiều máy bay hơn không quân các cường quốc đương thời nhưAnh,Pháp,Đức,Nhật Bản... Tuy nhiên khi so sánh vớiKhông quân Hoa Kỳthì Không lực Việt Nam Cộng hòa chỉ cóKhông quân chiến thuậtđể hỗ trợ tiền tuyến mà không cóKhông quân chiến lược(cụ thể là pháo đài bayB-52). Đồng thời lực lượng này bịHoa Kỳkiểm soát và khống chế việc chỉ huy các chiến dịch, khiến phi cơ chỉ có thể hoạt động giới hạn tạiNam Việt Nam, không được phép thực hiện những phi vụ oanh tạc sâu trong lãnh thổmiền Bắc Việt Namcũng như 2 nước láng giềng làLàovàCampuchia. Sau khi để mất các đảo trongHải chiến Hoàng Savề phíaTrung Quốc,Nguyễn Văn Thiệuđã lên kế hoạch huy động không lực Việt Nam Cộng hòa oanh tạcHoàng Sađể chiếm lại nhưng sau đó bị hủy bỏ do phía Mỹ ngăn chặn. TrongSự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cùng với sự sụp đổ củaQuân lực Việt Nam Cộng hòa, lực lượng không quân cũng chính thức tan rã.
Trong số 2.750 máy bay và trực thăng các loại của Không lực Việt Nam Cộng hòa (toàn bộ doHoa Kỳtrang bị), chỉ có 308 chiếc sống sót qua chiến tranh (240 chiếc bay thoát sangThái Lanhoặc ra tàu sân bay Mỹ, 68 chiếc được gửi về Mỹ,[4]hơn 2.440 chiếc còn lại đã bị bắn rơi, phá hủy hoặc bị tịch thu. Trong số đó, 877 chiếc máy bay và trực thăng đã bịQuân đội Nhân dân Việt Namtịch thu vào năm 1975.[5]
Lực lượng không quân Việt Nam Cộng hòa được hình thành từ một số phi công người Việt được tuyển chọn bay cùng với các phi công Pháp với tư cách là sĩ quan của quân đội Pháp. KhiQuốc gia Việt Nam, được thành lập, các sĩ quan người Việt này được chuyển sang cơ cấuQuân đội Quốc gia.
Bản thân Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt NamNguyễn Văn Hinhcũng xuất thân là một sĩ quan phi công, vì vậy, ông rất chú trọng việc xây dựng Lực lượng Không quân. Tháng 6 năm 1951, một cơ quan phụ trách về ngành Không quân trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập với tên gọi là Ban Không quân, ban đầu chỉ làm nhiệm vụ phụ trách Phi đội Liên Lạc. Trên thực tế, các phi công người Việt chỉ làm nhiệm vụ bay cùng với các phi công Pháp trong các phi vụ. Các chức vụ chỉ huy và Phi công chính đều là sĩ quan Pháp. Ngay cả chức vụ Trưởng ban Không quân, kiêm Phụ tá Không quân cho Tổng tham mưu trưởng cũng là sĩ quan Pháp.
Tháng 4 năm 1952, thành lập Trung tâm Huấn luyện Không quân tại Nha Trang nhưng vẫn do các sĩ quan Pháp đảm nhiệm Chỉ huy trưởng và trực tiếp huấn luyện. Năm 1953, thành lập thêm 2 phi đội Quan Sát và Trợ Chiến tại Tân Sơn Nhứt và Nha Trang. Năm 1954, Ban Không quân được đổi thành Phòng Không quân.
Năm 1955,Không quân Phápbàn giao lại choKhông quân Quốc gia Việt Namkhoảng 25 vận tải cơ C-47, 2Phi đoànquan sát L-19 và 25Khu trục cơcánh quạtF8F Bearcatlỗi thời.[6]Tháng 7 năm 1955, lần đầu tiên một người Việt được giữ chức vụ Phụ tá Không quân là Trung táNguyễn Khánh. Giai đoạn đầu ngành Không quân chỉ được quy định với quân số 40 sĩ quan, 120 hạ sĩ quan và 500 binh sĩ.
Năm 1957, theo chương trình hợp tác viện trợ, một phái đoànKhông quân Hoa Kỳsang nghiên cứu tình hình để soạn thảo kế hoạch huấn luyện cho Không quân Việt Nam Cộng hòa. Nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan được tuyển chọn sang tu nghiệp tại các trường Không quân Hoa Kỳ. Các phi trường Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Đà Nẵng được xây dựng mở rộng. Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang cũng được xây dựng quy mô hơn, nhằm đào tạo tại chỗ các khóa hoa tiêu và quan sát viên, và các khóa đào tạo chuyên viên để bổ sung cho các đơn vị.
Tháng 9 năm 1959, mộtPhi độiđầu tiên gồm 6 phi cơ A-1 Skyraider(Thiên tướng)đượcHoa Kỳchuyển giao cho Không quân Việt Nam Cộng hòa. Sau đó trong vòng 1 năm có thêm 25 chiếc Skyraider khác được bàn giao tạiCăn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt. Năm 1960, Phi đoàn 1 Khu trục cơ được thành lập và bắt đầu hoạt động từBến HảiđếnCà Mauđể yểm trợ cho Bộ binhViệt Nam Cộng hòa[7]
Năm 1961, chương trình trợ giúp của Hoa Kỳ có tênFarm Gateđã đưa các loại phi cơ cánh quạt huấn luyện T28,Oanh tạc cơhạng nhẹ B26 và vận tải cơ C.47 cùng khoảng 124 sĩ quan và 228 quân nhân Hoa Kỳ sang giúp huấn luyện. Các hệ thống hướng dẫn và kiểm soát không lưu được thiết lập tại các phi trường Tân Sơn Nhứt, Đà Nẵng và Pleiku.[a]Liên đoàn1 Không vận đầu tiên được thành lập với Trung táNguyễn Cao Kỳđược chỉ định làm Liên đoàn trưởng. Hoa Kỳ cũng trao cho Không quân Việt Nam Cộng hòa thêm 16 Vận tải cơ hạng trung C.123 trong tháng 12 năm 1961.
Ngày 26 tháng 2 năm 1962, hai phi côngPhạm Phú Quốcvà Nguyễn Văn Cử trên đường bay huấn luyện đã đột ngột bay trở lại dội bom mưu toan giết chết Tổng thống Việt Nam Cộng hòaNgô Đình Diệm. Ngay lập tức Tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh đình chỉ vô hạn định các phi vụ chiến đấu.[8]Cũng vì lý do này mà đương kim Tư lệnh Không quân là Đại táNguyễn Xuân Vinhbị thất sủng, phải xin giải ngũ với lý do sang Hoa Kỳ học ngành Tiến sĩ Không gian.
Năm 1962, các đơn vị Không quân tác chiến và Yểm trợ tác chiến được tăng lên cấpKhông đoàntại mỗi vùng Chiến thuật: Không đoàn 41 (căn cứ ởĐà Nẵng), Không đoàn 62 (Pleiku), Không đoàn 23 (Biên Hòa), Không đoàn 33 (Tân Sơn Nhất), Không đoàn 74 (Cần Thơ)[9]
Sau cuộc"Chỉnh lý"lên nắm quyền, tướngNguyễn Khánhthực hiện một số cải tổ trong Quân đội. Ngoài việc đặt ra thêm cấp bậcChuẩn tướng, ông còn cho thay đổi tên gọi "Quân đội Việt Nam Cộng hòa" thành "Quân lực Việt Nam Cộng hòa". Danh xưngKhông Lực Việt Nam Cộng Hòacũng được sử dụng chính thức từ lúc đó.
Ngày 3 tháng 2 năm 1965, mộtPhi đoàngồm 24 chiếcA-1H Skyraiderdo Thiếu tướngNguyễn Cao Kỳchỉ huy cất cánh từ Căn cứ Không quân Đà Nẵng và tham gia vào Chiến dịch Mũi tên lửa(Flaming Dart)do Hoa Kỳ vạch định, tấn công các địa điểm ở phía bắc Vĩ tuyến 17[10]
Ngày 11 tháng 2 năm 1965, Đại táNguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh phó Không lực Việt Nam Cộng hòa, làm Phi đoàn trưởng 28 chiếc Skyraider của Việt Nam Cộng hòa cùng với 28 chiếc F100 của Không quân Hoa Kỳ mở cuộc tấn công thứ hai vào lãnh thổ phía bắc Vĩ tuyến 17. Trong đợt này phi côngPhạm Phú Quốcbị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc Việt Nam[11]
Vào năm 1965, Không lực Việt Nam Cộng hòa có 12.000 quân, đến 1966 là 16.000 quân. Bao gồm 5 không đoàn chiến thuật, 1 không đoàn tiếp vận. Trung tâm huấn luyện trong nước duy nhất đặt tại Nha Trang.[12]
Năm 1967, Không Lực Việt Nam Cộng hòa có thêm 1 Phi đoàn Khu trục trang bị phản lực cơ F-5. Số hiệu của các đơn vị cấpPhi đoànđược cải tổ xếp thành 3 số. Theo đó, chữ số đầu trong 3 chữ số của đơn vị cấp phi đoàn được dùng để chỉ công dụng của phi đoàn đó: số 1 là liên lạc, số 2 là trực thăng, số 3 là đặc vụ, số 4 là vận tải, số 5 là khu trục, số 7 là quan sát, số 8 là máy bay cường kích, và số 9 là huấn luyện.[9]
Năm 1970, với đà phát triển nhanh của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, các Không đoàn Chiến thuật phát triển thành 4 Sư đoàn không quân,[b]tác chiến hỗ trợ cho 4 Vùng Chiến thuật. Năm 1971, Sư đoàn 5 Không quân được thành lập và trở thành Lực lượng Không quân Trừ bị của Bộ Tổng Tham mưu. Năm 1972, thành lập thêm tại Quân khu 2 Sư đoàn 6 chịu trách nhiệm vùng trời chiến trường Cao nguyên Trung phần.
Ở thời điểm 28/1/1973, Không Lực Việt Nam Cộng hòa có 2.073 máy bay các loại: 79 A-1, 248 A-37, 66 C-119G/K, 32 C-130, 239 O-1, 35 O-2, 24 T-37, 10 U-6, 85 U-17, 19 C-123, 56 C-7, 76 C-47, 24 T-41, 70 CH-47, 859 UH-1, 151 F-5 A/B/E[4]
Tính đến cuối năm 1974, Không lực Việt Nam Cộng hòa có tổng số quân lên tới 62.583, trong đó có 6.788 phi công; tổng số máy bay lên tới 1.850 chiếc, trong đó có 260 máy bay tiêm kích, số còn lại là máy bay ném bom, trinh sát, vận tải và trực thăng. Chất lượng máy bay cũng cải tiến (thay F-5A bằng F-5E).
Số hiệu của cácPhi đoàngồm có 3 chữ số. Theo đó, chữ số đầu trong 3 chữ số của phi đoàn được dùng để chỉ công dụng của Phi đoàn đó và được quy định như sau:
Tư lệnh đầu tiên. Sinh năm 1928 tại Chợ Lớn, tên quốc tịch Pháp là Paul. Được thăng vượt cấp từ Trung úy lên Thiếu tá, Trung tá (1955) và Đại tá (1956).
Sinh năm 1930 tại Yên Bái. Thăng cấp Đại tá (1961). Thất sủng sauVụ đánh bom Dinh Độc Lập 1962. Xin giải ngũ sang Hoa Kỳ du học, về sau là Tiến sĩ Vật lý phục vụ trong ngành Khoa học Không gian của Hoa Kỳ.
Tháng 12/1963, Quyền Tư lệnh Không quân đến tháng 3/1964 chính thức Tư lệnh, tháng 7/1964 kiêm Chỉ huy trưởng Không đoàn 83 Đặc nhiệm (tức Biệt đoàn 83 Thần Phong). Năm 1965 giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (Thủ tướng) nhưng vẫn kiêm Tư lệnh Không quân đến 1967. Cấp bậc sau cùng: Thiếu tướng.
Cấp bậc sau cùng: Trung tướng. Trong QLVNCH có hai Trung tướng cùng họ và tên, nên để phân biệt mỗi ông có một biệt danh đi kèm với tên: Minh Lục quân và Minh Không quân. Tướng Minh Lục quân sinh năm 1923, năm 1965 giữ chức vụ Tổng Tư lệnh Quân lực (Tổng Tham mưu trưởng), hơn tướng Minh Không quân 9 tuổi và được thăng cấp Trung tướng (1957) trước tướng Minh Không quân 11 năm.
Martin B-57 Canberra- Không quân Hoa Kỳ cho mượn để dùng cho huấn luyện - chưa bao giờ được Không Lực Việt Nam Cộng Hòa khai triển cho tác chiến Khu trục cơ
Vào thời điểm 28/1/1973, Không Lực Việt Nam Cộng hòa có 2.073 máy bay các loại: 79 A-1, 248 A-37, 66 C-119G/K, 32 C-130, 239 O-1, 35 O-2, 24 T-37, 10 U-6, 85 U-17, 19 C-123, 56 C-7, 76 C-47, 24 T-41, 70 CH-47, 859 UH-1, 151 F-5 A/B/E[4]